Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Hạnh các Thánh tháng 06

Trang Tin Điện tử Báo Công Giáo www.baoconggiao.com - Email: baoconggiao.com@gmail.com

Hạnh các Thánh tháng 06

1/6 – Thánh Giúttinô, Tử đạo (qua đời năm 165)
Thánh Giúttinô không ngừng đòi hỏi sự thật tôn giáo, ngay cả khi ngài trở lại Kitô giáo sau nhiều năm nghiên cứu các triết học ngoại giáo.
Khi còn trẻ, ngài theo trường phái của Plato. Tuy nhiên, ngài thấy Kitô giáo trẻ lời được những vấn đề quan trọng về cuộc sống và sự hiện hữu hơn hẳn các triết gia.
Khi trở lại đạo, ngài tiếp tục mặc loại áo choàng (mantle) dành cho triết gia, và trở thành triết gia Kitô giáo. Ngài kết hợp Kitô giáo với các yếu tố tốt nhất của triết học Hy Lạp. Theo ngài, triết học là nhà mô phạm (pedagogue) của Đức Kitô, nhà giáo dục dẫn người ta đến với Đức Kitô.
Thánh Giúttinô có tiếng là nhà biện giải tôn giáo (apologist), bảo vệ bằng những bài viết về Kitô giáo phản bác những khích bác và hiểu lầm của người ngoại giáo. Hai bài biện giải của ngài còn truyền lại cho chúng ta, hai bài này được gởi cho hoàng đế Rôma và thượng viện. Vì trung thành với Kitô giáo, ngài bị xử trảm tại Rôma năm 165.


2/6 – Các thánh Marcêllinô và Phêrô, Tử đạo (qua đời năm 304)
Các thánh Marcêllinô và Phêrô nổi bật trong giáo hội và được kể trong số các thánh của giáo luật Rôma. Nhắc đến tên các ngài là cách chọn lựa trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Eucharistic Prayer I). Thánh Marcêllinô là linh mục, thánh Phêrô là người trừ quỷ (exorcist), nghĩa là người được giáo hội trao quyền xử lý các trường hợp bị ma quỷ trói buộc. Các ngài đều bị xử trảm trong thời bách hại của Diocletian (hoàng đế Rôma, 284-301). ĐGH Damasô viết văn bia (epitaph) dựa vào thông tin của đao phủ, và Constantine cho xây đền thờ ở Rôma ngay trên hầm mộ an táng các ngài. Có nhiều truyền thuyết về cái chết của các ngài.
Tại sao các ngài được nhắc đến trong King nguyện Thánh Thể và có ngày lễ, mặc dù hầu như không biết gì về các ngài? Có thể vì giáo hội tôn trọng ký ức tập thể. Có lần các ngài đã thôi thúc khuyến khích toàn thể giáo hội. Các ngài đã tạo bước quyết định về đức tin: “Giáo hội luôn tin rằng cá thánh tông đồ, và các vị tử đạo của Chúa Kitô đã làm chứng về đức tin và bác ái bằng chính máu mình, kết hiệp mật thiết với chúng ta trong Đức Kitô” (Hiến chế về Giáo hội, 50).

3/6 – Chân phước Gioan XXIII, Giáo hoàng (1881-1963)
Ít người có ảnh hưởng trong thế kỷ XX như CP Giáo hoàng Gioan XXIII, ngài tránh được người khác chú ý càng nhiều càng tốt. Thật vậy, có người đã viết rằng “tính bình dân” (ordinariness) có vẻ là một trong các đức tính nổi bật của ngài nên ngài được nhắc đến với biệt danh “ông già bình dân”.
Là con cả trong một gia đình ở Sotto il Monte, gần Bergamo thuộc Bắc Ý, Angelo Giuseppe Roncalli luôn hãnh diện về nguồn gốc thực tế (down-to-earth roots). Là chủng sinh ở chủng viện Bergamo, ngài còn gia nhập Dòng Ba Phanxicô.
Sau khi thụ phong linh mục năm 1904, ngài trở lại Rôma để học giáo luật (canon law). Sau đó ngài làm thư ký cho giám mục, rồi là giáo sư dạy lịch sử giáo hội tại chủng viện và xuất bản báo chí của giáo phận.
Ngài là người khiêng cáng (stretcher-bearer) cho quân đội Ý trong Thế chiến nên ngài trực tiếp biết về chiến tranh. Năm 1921, ngài được bầu làm giám đốc Hội Truyền bá Đức tin (Society for the Propagation of the Faith), ngài dành thời gian dạy khoa nghiên cứu tông phẩm (patristics, các tác phẩm của các tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu) tại chủng viện ở Rôma.
Năm 1925, ngài làm nhà ngoại giao Tòa thánh, phục vụ đầu tiên ở Bulgaria, rồi ở Thổ Nhĩ Kỳ và ở Pháp (1944-53). Trong Thế chiến II, ngài thân quen với các vị lãnh đạo Chính thống giáo và được trợ giúp của đại sứ quán Đức tại Thổ Nhĩ Kỳ, TGM Roncalli đã cứu thoát khoảng 24.000 người Do Thái.
Ngài được tấn phong hồng y và được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Venice năm 1953. Một tháng sau sinh nhật thứ 78, ngài được bầu làm giáo hoàng, chọn danh hiệu Gioan, tên của cha ngài và thánh bổn mạng đền thờ Rôma, thánh Gioan Latêranô. Ngài làm việc rất nghiêm túc, nhưng chính ngài không nghiêm khắc. Sự hóm hỉnh của ngài mau được mọi người biết đến, và ngài bắt đầu họp với các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị trên khắp thế giới. Năm 1962, ngài nỗ lực giải quyết sự khủng hoảng tên lửa của Cuba.
Hai Tông thư nổi tiếng của ngài là Mẹ và Thầy (Mother and Teacher, 1961) và Hòa bình trên Trái đất (Peace on Earth, 1963).
ĐGH Gioan XXIII thêm tổng số thành viên của Hồng y đoàn (College of Cardinals) và toàn cầu hóa Hồng y đoàn. Phát biểu tại buổi khai mạc Công đồng Vatican II, ngài chỉ trích“các nhà tiên tri về tận thế (prophets of doom) trong thời đại hiện đại không thấy gì mà chỉ quanh co và phá hoại”. Ngài nói: “Giáo hội luôn luôn chống lại... các sai lầm. Tuy nhiên, ngày nay giáo hội thích dùng liệu pháp Lòng Thương Xót hơn là nghiêm khắc”. Trên giường bệnh, ngài nhắn nhủ: “Không phải Phúc âm đã thay đổi mà là chúng ta đã bắt đầu hiểu Phúc âm đúng hơn. Những ai sống lâu như tôi đều có thể so sánh các nền văn hóa và truyền thống khác nhau, và cũng biết rằng đã đến lúc nhận biết các dấu hiệu của thời đại, nắm bắt cơ hội và nhìn xa trông rộng”.
ĐGH Gioan Phaolô II phong chân phước cho ngài vào ngày 3-9-2000, ngày 11-10 (ngày khai mạc khóa họp đầu tiên của Công đồng Vatican II) là lễ nhớ ngài.

4/6 – Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo (qua đời năm 1886)
Một trong 22 vị tử đạo của Uganda là thánh Charles Lwanga. Ngài là bổn mạng giới trẻ và hoạt động Công giáo ở hầu hết các nước Phi châu. Ngài bảo vệ các bạn tiểu đồng (từ 13 tới 30 tuổi) khỏi các nhu cầu đồng tính của nhà cầm quyền Baganda là Mwanga, ngài khuyến khích và hướng dẫn họ trong đức tin Công giáo ngay trong nhà tù vì tội từ chối yêu cầu của nhà lãnh đạo.
Vì từ chối hành động vô luân và bảo vệ đức tin cho các bạn, thánh Charles bị thiêu tại Namugongo ngày 3-6-1886 theo lệnh của Mwanga.
Ngài biết đến giáo huấn của Chúa Kitô nhờ 2 cận thần của thẩm phán Mawulugungu. Ngài được vào hoàng cung để giúp Joseph Mukaso, trưởng nhóm tiểu đồng.
Vào đêm Mukaso chịu tử đạo vì khuyến khích giới trẻ Phi châu chống lại Mwanga, thánh Charles xin lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Bị tù với các bạn, ngài can đảm và tin Chúa đã linh hứng cho họ giử đức khiết tịnh và đức tin.
Trong lễ phong thánh cho 22 vị tử đạo ngày 18-10-1964, CP Giáo hoàng Phaolô VI đã nhắc đến các tiểu đồng của Anh cũng chịu tử đạo vì cùng lý do đó.

5/6 – Thánh Boniface, Giám mục (672?-754)
Thánh Boniface được biết đến là tông đồ của người Đức. Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức, và được chọn làm tu viện trưởng. Ngài dành cả đời để hoán cải các bộ lạc ở Đức. Ngài có 2 đức tính nổi bật: tuân thủ chính thống Kitô giáo và trung thành với Giáo hoàng La Mã.
Sự chính thống và lòng trung thành này tạo ra các điều kiện mà ngài thành lập trong hành trình sứ vụ đầu tiên năm 719 theo yêu cầu của ĐGH Grêgôriô II.
Có những điều kiện mà thánh Boniface tường trình năm 722 trong lần đầu tiên đến thăm Rôma. ĐGH hướng dẫn ngài cải cách Giáo hội Đức và gởi thư khuyên răn các tín hữu và các lãnh đạo nhà nước. Về sau ngài nói là công việc của ngài không thành công, theo quan điểm của con người. Rồi ngài được tấn phong giám mục cai quản và tổ chức cả Giáo hội Đức rất thành công.
Tại vương quốc Frank, ngài gặp nhiều rắc rối vì có sự can thiệp của phần đời trong việc bầu chọn giám mục, các giáo sĩ thiếu sự kiểm soát của giáo hoàng. Trong sứ vụ cuối cùng tại Frisian, ngài và 53 người khác bị tàn sát khi ngài chuẩn bị ban bí tích Thêm sức.
Để bảo đảm Giáo hội Đức trung thành với Rôma và hoán cải người ngoại giáo, ngài theo 2 quy luật: Một là duy trì đức vâng lời của các giáo sĩ đối với các giám mục hiệp thông với Rôma, hai là thiết lập nhiều nhà cầu nguyện theo kiểu tu viện Biển Đức. Nhiều nam nữ tu sĩ Anglo-Saxon theo ngài tới lục địa. Ngài giới thiệu cách giáo dục với các nữ tu Biển Đức để làm việc tông đồ.

6/6 – Thánh Norbert (1080?-1134)
Đôi khi bạn bè đùa đọc trại tên Premonstratensians thành “Monstrous Pretensions” (kỳ vọng lớn lao) kiểu như Dòng Phan Sinh O.F.M. đọc đùa là “Out For Money” (ra ngoài kiếm tiền). Tên ngài có nguồn gốc từ Premontre, một vùng ở nước Pháp, nơi Norbert đã lập dòng này hồi thế kỷ 12.
Nhớ lại biệt danh này, Norbert thành lập dòng này với nhiệm vụ to lớn: chống lại các tà thuyết, đặc biệt là quan tâm bí tích Thánh Thể, tái tạo sức sống cho nhiều tín hữu lãnh đạm và phóng đãng, đồng thời tác động hòa bình và hòa giải trong kẻ thù.
Norbert không kỳ vọng hoàn tất nhiệm vụ đa năng này. Được nhiều người giúp đỡ đã gia nhập dòng, he ngài nhận thấy không gì có thể trở thành hiệu quả nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa. Tìm được sự giúp đỡ qua lòng sùng kính Thánh Thể, ngài và các tu sĩ của dòng cùng tạ ơn Thiên Chúa về sự thành công trong việc hoán cải những người theo tà thuyết, hòa giải kẻ thù và tái tạo đức tin ở những tín hữu nguội lạnh.
Dù không muốn, nhưng Norbert vẫn chấp nhận làm tổng giám mục giáo phận Magdeburgthuộc miền Trung Đức quốc, có một nửa là Kitô hữu và một nửa là người ngoại. Trên cương vị giám mục, ngài nhiệt thành và can đảm hoàn tất sứ vụ tông đồ đối với giáo hội. Ngài qua đời ngày 6-6-1134.

7/6 – Tôi tớ Chúa Giuse Perez, Linh mục Tử đạo (1890-1928)
Thế kỷ III, Tertullian nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo hội”. Giuse Perez đã thực hiện truyền thống này.
Ngài sinh tại Coroneo, Mexico, vào Dòng Phan Sinh lúc 17 tuổi. Vì tình trạng bất ổn ở Mexico thời đó (sức ép của Pancho Villa lan sang cả New Mexico), ngài phải đi học triết học và thần học tại California.
Sau khi thụ phong linh mục tại Santa Barbara, ngài trở về Mexico và phục vụ tại Jerecuaro từ năm 1922. Cuộc bách hại dưới thời Plutarco Calles (1924-28) khiến ngài phải cải trang nhiều hình thức khi đi thăm giáo dân. Năm 1927, giáo hội trong nước chịu cảnh khốn khó: các trường Công giáo đều bị đóng cửa, các linh mục và các nữ tu ngoại quốc đều bị trục xuất.
Một hôm, ngài và vài người khác bị bắt khi đang trên đường trở về sau khi bí mật cử hành thánh lễ. Ngài bị quân lính đâm chết cách Celaya vài dặm vào ngày 2-6-1928.
Thi hài ngài được rước về Salvatierra, và được an táng trong tiếng hô vang:"Viva, Cristo Rey!" (Vạn tuế Vua Kitô!).

8/6 – Thánh William York, Giám mục (qua đời năm 1154)
Ngài sinh ra trong một gia đình quyền thế tại Anh quốc hồi thế kỷ 12, ngài như được tiền định làm những việc vĩ đại. Người chú bác của ngài sau đó lên ngôi cai trị Anh quốc. Ngài phải đối mặt với sự thù hận trong giáo hội.
Mặc dù khó khăn, ngài vẫn được bổ nhiệm làm tổng giám mục giáo phận York năm 1140. Các giáo sĩ địa phương ít nhiệt thành, và tổng giám mục giáo phận Canterbury không đồng ý tấn phong giám mục cho linh mục William. Ba năm sau, ngài được một giám mục khác tấn phong, nhưng không được ĐGH Innocent II chấp thuận, các giáo hoàng kế nhiệm cũng không chấp thuận. Ngài bị truất phế và người khác được chọn thay thế.
Mãi đến năm 1154, 14 năm sau khi ngài được bổ nhiệm, ngài mới chính thức được chấp nhận là giám mục giáo phận York. Lúc này ngài được mọi người đồng tình ủng hộ. Như chỉ 2 tháng sau đó ngài qua đời, có thể bị đánh thuốc độc. Người bị tình nghi là giám mục phụ tá, nhưng đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Dù mọi thứ xảy ra, ngài vẫn không tỏ ra thù ghét những người ghét ngài. Sau khi ngài qua đời, nhiều phép lạ được coi là có sự can thiệp của ngài. Sau 73 năm, ngài được phong thánh.

9/6 – Thánh Ephrem, Phó tế (306?-373)
Là thi sĩ, giáo viên, nhà giảng thuyết và người bảo vệ đức tin, thánh Ephrem còn là Tiến sĩ Giáo hội. Ngài tự nhận trách nhiệm đặc biệt là chống lại nhiều thuyết sai lầm “nổi cộm” thời đó, luôn bảo vệ Giáo hội Công giáo một cách trung thực và mạnh mẽ.
Ngài sinh tại Nisibis, Mesopotamia, lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy khi còn trẻ và nổi tiếng là thầy dạy ở thành phố quê hương ngài. Khi hoàng đế Kitô hữu phải nhượng Nisibis cho người Ba Tư, ngài cùng nhiều Kitô hữu khác lánh nạn sang Edessa. Ngài có uy tín trong việc tạo danh tiếng cho trường Kinh thánh ở đó. Ngài được phong chức phó tế nhưng từ chối làm linh mục – người ta còn nói rằng ngài từ chối làm giám mục bằng cách giả điên (by feigning madness).
Ngòi bút của ngài phong phú và các bài viết của ngài chứng tỏ sự thánh thiện của ngài. Dù ngài không là một học giả vĩ đại, các tác phẩm của ngài phản ánh sự hiểu biết sâu sắc và kiến thức rộng về Kinh thánh. Trong các bài viết về các mầu nhiệm của ơn cứu độ, ngài thể hiện sự cảm thông nhân bản và thực tế, ngài còn rất sùng kính nhân tính của Chúa Giêsu. Người ta nói rằng bài thơ Phán Xét Cuối Cùng (Last Judgment) của ngài đã gợi hứng cho thi sĩ Dante.
Ngài viết những bài thánh ca (hymns) chống lại các tà thuyết hồi đó. Ngài còn lấy giai điệu của các ca khúc phổ thông, viết lời thể hiện giáo lý chính thống. Ngài là một trong những người đầu tiên đưa ca khúc vào việc thờ phượng chung của Giáo hội. Nhiều bài thánh ca của ngài làm cho ngài có biệt danh là “Cây đàn của Thánh Linh” (Harp of the Holy Spirit).
Ngài sống giản dị và khắc khổ tại một hang động nhìn ra thành phố Edessa. Ngài qua đời tại đây khoảng năm 373.

10/6 – Chân phước Joachima (1783-1854)
Joachima sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Barcelona, Tây Ban Nha. Lúc 12 tuổi, thánh nữ ước muốn đi tu Dòng Camêlô (Carmelite). Nhưng cuộc đời bà có bước ngoặt khác lúc 16 tuổi là kết hôn với một luật sư trẻ Theodore de Mas. Cả hai vợ chồng đều sùng đạo, cùng vào Dòng Ba Phanxicô. Trong 17 năm hôn nhân, họ có 8 người con.
Đời sống gia đình bị ngắt quãng khi Napoleon xâm lăng Tây Ban Nha. Joachima phải đưa các con đi trốn. Theodore không kịp trốn và bị chết. Dù bà vẫn muốn vào dòng tu, bà chú tâm vào nhiệm vụ làm mẹ. Cùng lúc đó, bà sống khắc khổ và chọn tu phục của Dòng Ba Phanxicô làm trang phục thường ngày. Bà dành nhiều thời gian cầu nguyện và thăm viếng bệnh nhân.
Bốn năm sau, vài đứa con đã kết hôn và bà vẫn phải chăm sóc mấy đứa con nữa, bà nói với một linh mục về ước muốn đi tu của bà. Được khuyến khích, bà lập dòng Tỷ muội Bác ái Camêlô (Carmelite Sisters of Charity). Chiến tranh đang xảy ra lúc đó, bà bị tù một thời gian ngắn, rồi bị đày sang Pháp vài năm.
Bệnh tật khiến bà phải từ chức Mẹ bề trên. Qua 4 naăm kế tiếp, bà bị bại liệt. Năm 1854, bà qua đời ở tuổi 71. Bà nổi tiếng và được khâm phục vì chuyên chăm cầu nguyện, tin Thiên Chúa một cách sâu sắc và sống bác ái.

11/6 – Thánh Barnabas, Tông đồ
Thánh Barnabas là người Do Thái ở Cyprus, ngài gần gũi với thánh Phaolô vì ngài giới thiệu thánh Phaolô với thánh Phêrô và các tông đồ khác. Ngài là người trung gian giữa người bắt đạo và các Kitô hữu người Do Thái còn hoài nghi.
Khi cộng đồng Kitô giáo phát triển tại Antioch, thánh Barnabas được sai đến với tư cách là đại diện chính thức của giáo hội Giêrusalem để kết hợp họ. Ngài và thánh Phaolô hướng dẫn tại Antioch một năm, sau đó đến Giêrusalem.
Lúc này, thánh Barnabas và Phaolô được coi là những người lãnh đạo uy tín, được các vị hữu trách ở Antioch cử đi giảng đạo cho dân ngoại. Công sức của các ngài gặt hái nhiều thành công. Sau một phép lạ tại Lystra, dân chúng muốn coi các ngài là các vị thần – Barnabas là thần Zeus, Phaolô là thần Hermes – nhưng các ngài nói: “Chúng tôi cũng chỉ là phàm nhân như quý vị. Chúng tôi loan báo cho quý vị biết Tin Mừng để quý vị từ bỏ các ngẫu tượng mà tôn thờ Thiên Chúa hằng sống” (x. Cv 14:8-18).
Nhưng mọi chuyện bất ổn. Các ngài bị trục xuất khỏi thành phố, các ngài phải đi Giêrusalem. Khi thánh Phaolô muốn thăm lại các nơi cũ các ngài đã giảng đạo, thánh Barnabas muốn đưa Gioan Máccô theo, nhưng thánh Phaolô cứ khăng khăng cho rằng, vì Máccô đã có lần bỏ trốn họ, ngài không thích hợp để đưa theo lúc đó. Sự bất đồng ý kiến sau đó trở nên căng thẳng đến nỗi thánh Barnabas và thánh Phaolô “chia tay”, Barnabas đưa Máccô tới Cyprus, Phaolô đưa Silas tới Syria. Sau đó, họ cùng giải hòa – thánh Phaolô, Barnabas và Máccô.
Khi thánh Phaolô ủng hộ thánh Phêrô về việc không ăn uống với dân ngoại vì sợ người Do Thái, chúng ta biết rằng “ngay cả Barnabas cũng bị lôi cuốn vì sự giả hình của họ” (x. Gl 2:1-13).
12/6 – Chân phước Jolenta (Yolanda), người Ba Lan (qua đời năm 1298)
Jolenta là nữ tử của Bela IV, vua Hungary. Chị của bà là thánh nữ Kunigunde kết hôn với công tước Ba Lan. Jolenta được gởi tới Ba Lan, nơi chị của bà giám sát việc học hành của bà.
Jolenta kết hôn với Boleslaus, cũng là một công tước. Bà dùng chính vật chất của mình để giúp người nghèo, người bệnh, người góa bụa và trẻ mồ côi. Chồng bà cùng bà xây các bệnh viện, các nhà thờ và các tu viện, và chồng bà được người ta gọi là “người ngoan đạo” (Pious).
Sau khi chồng qua đời và lo gia thất cho hai người con gái, Jolenta và người con gái thứ ba vào dòng thánh Clara Khó nghèo (Poor Clares). Bà chuyển sang nhà dòng khác và được bầu làm Mẹ bề trên, dù thật lòng bà không muốn.
Bà có rất sùng kính Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hiện ra với bà và cho bà biết bà sắp từ giã thế gian. Cho tới ngày nay, nhiều phép lạ xảy ra ngay tại mộ của bà, được coi là nhờ sự can thiệp của bà.

13/6 – Thánh Antôn Pađua, Linh mục (1195-1231)
Việc Chúa Giêsu kêu gọi từ bỏ mọi sự mà theo Ngài là điều hợp với cuộc đời thánh Antôn. Thiên Chúa kêu gọi ngài theo kế hoạch riêng của Thiên Chúa. Thánh Antôn đáp lại bằng lòng nhiệt thành và hoàn toàn tận hiến phục vụ Thiên Chúa. Khi còn rất trẻ, ngài vào Dòng Thánh Augustinô, từ bỏ mọi sự để phục vụ Thiên Chúa. Sau đó, khi hài cốt các vị tử đạo của Dòng Phanxicô được đưa đến một thành phố của Bồ Đào Nha, nơi ngài đang ở, ngài rất muốn là người được gần gũi nhất với Chúa Giêsu: Hiến mạng sống vì Phúc âm.
Ngài vào Dòng Phanxicô và bắt đầu giảng đạo cho người Ma-rốc (Moors). Nhưng một cơn bệnh đã ngăn bước ngài. Ngài đến Ý và ở tại một nơi ẩn dật để chuyên cầu nguyện, đọc Kinh thánh và làm những việc hèn mọn.
Thánh Antôn được chọn làm linh mục, ngài khiêm nhường và vâng lời chấp nhận trọng trách đó. Nhiều năm tìm kiếm Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện, đọc Kinh thánh và và phục vụ Chúa trong sự nghèo khó, vâng lời và khiết tịnh, ngài để Chúa Thánh Thần toàn quyền sử dụng tài năng của ngài. Bài giảng của thánh Antôn làm ngạc nhiên người nghe, họ không biết đó là do Chúa Thánh Thần linh ứng.
Được nhận biết là một học giả thần học và Kinh thánh, thánh Antôn trở thành tu sĩ đầu tiên dạy thần học cho các tu sĩ khác. Khi được gọi đi rao giảng cho những người theo tà thuyết, ngài dùng kiến thức uyên bác của ngài về Kinh thánh và thần học để hoán cải họ.

14/6 – Thánh Albert Chmielowski, Tu sĩ (1845-1916)
Thánh Albert Chmielowski sinh tại Igolomia, gần Kraków, Ba Lan. Ngài là anh cả trong 4 người con của một gia đình giàu có, tên “cúng cơm” của ngài là Adam. Năm 1864, trong cuộc khởi nghĩa chống lại hoàng đế Czar Alexander III, ngài bị mất chân trái và phải lắp chân giả.
Ngài có khiếu hội họa nên được đi học ở WarsawMunich và Paris. Ngài trở về Kraków và vào Dòng Ba Phanxicô. Năm 1888, ngài lấy tên Albert khi thành lập Dòng Ba Anh Em Phanxicô (Brothers of the Third Order of Saint Francis), còn gọi là Dòng Phục vụ Người nghèo (Servants to the Poor). Mới đầu các tu sĩ không có nhà cửa, sống nhờ vào của bố thí khi phục vụ nhu cầu của người nghèo, bất kể tuổi tác, tôn giáo hoặc chính trị. Cộng đoàn Nữ tu Albertine được thành lập sau đó. CP GH Gioan-Phaolô II phong chân phước cho ngài năm 1983, và phong thánh cho ngài năm 1989.

15/6 – Tôi tớ Chúa Orlando Catanii
Bất ngờ gặp thánh Phanxicô Assisi năm 1213, cuộc đời của chàngOrlando (còn gọi là Roland) hoàn toàn thay đổi.
Thánh Phanxicô đã nghe nói về sự thánh thiện của OrlandoOrlandođược những lời giáo huấn của thánh Phanxicô lay động nên tìm đến xin lời khuyên về cách sống tốt nhất làm đẹp lòng Chúa.
Không lâu sau, thánh Phanxicô đến thăm một vùng dưới chân núi La Verna. Thánh Phanxicô nói về những mối nguy hiểm của đời sống giàu có và thoải mái. Lời của thánh Phanxicô đã thức tỉnh lòng Orlando. Ngài quyết định phân phát của cải cho người nghèo cho dân vùng La Verna theo ý của thánh Phanxicô. Theo gợi ý của thánh Phanxicô, Orlando liền cho xây một tu viện và một nhà thờ ở đó. Về sau, nhiều nhà nguyện được xây dựng thêm. Năm 1224, hai năm trước khi thánh Phanxicô qua đời, núi La Verna là nơi thánh Phanxicô chịu 5 vết thương của Chúa Giêsu.
Orlando chỉ muốn được nhận vào Dòng Ba và được thánh Phanxicô linh hướng. Theo hướng dẫn của thánh Phanxicô, Orlando đã tách mình ra khỏi thế gian. Ngài nhiệt tâm làm việc bác ái. Sau khi qua đời, Orlando được an táng tại nhà nguyện của tu viện trên núi La Verna.

16/6 – Thánh Gioan Phanxicô Regis, Linh mục (1597-1640)
Sinh trong một gia đình khá giả, nhưng Gioan Phanxicô ảnh hưởng giáo dục của các tu sĩ Dòng Tên nên khao khát vào tu dòng này. Ngài đã thực hiện ý nguyện này lúc 18 tuổi. Sau khi thụ phong linh mục, ngài đi truyền giáo tại nhiều thành phố ở Pháp quốc. Lm Regis đặc biệt thương giúp người nghèo. Ngài dành buổi sáng để cử hành thánh lễ và giải tội, buổi chiều ngài đi thăm những người tù và các bệnh nhân.
Nội chiến Pháp kéo dài, thiếu vắng giáo sĩ, giáo dân không được nhận lãnh các bí tích, Tin Lành thịnh hành ở nhiều nơi. Cha Regis đi khắp giáo phận, hướng dẫn mục vụ trước khi ĐGM đến. Ngài hoán cải được nhiều người và đem nhiều người trở lại với lòng đạo đức.
Lm Regis muốn đi truyền giáo cho những người Ấn Độ gốc Bắc Mỹ ở Canada. Bốn năm cuối đời, ngài giảng đạo và tổ chức các dịch vụ xã hội, đặc biệt cho các tù nhân, bệnh nhân và người nghèo. Mùa Thu năm 1640, ngài cảm thấy cuộc đời ngài sắp hết. Ngài ổn định một số công việc và chuẩn bị từ giã thế gian bằng cách nói với người ta về Thiên Chúa yêu thương họ. Cả ngày 31-12, ngài luôn ngước mắt nhìn lên Thánh giá. Ngài qua đời vào chiều tối hôm đó. Lời cuối của ngài: “Con xin phó thác hồn con trong tay Chúa”. Ngài được phong thánh năm 1737.

17/6 – Thánh Giuse Cafasso, Linh mục (1811-1860)
Khi còn trẻ, Giuse Cafasso đã thích tham dự thánh lễ, sống khiêm nhường và cầu nguyện nhiều. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được bổ nhiệm về chủng viện tại Turin. Tại đây ngài cố gắng chống lại tà thuyết Jansen (*), vì thuyết này quan tâm thái quá tới tội lỗi và sự nguyền rủa. Ngài dùng các tác phẩm của thánh Phanxicô Salêsiô và thánh Anphongsô Liguori để chấn chỉnh sự nghiêm khắc trong chủng viện.
Ngài giới thiệu các thành viên Dòng Ba Phanxicô với các linh mục. Ngài thúc đẩy lòng sùng kính Thánh Thể và khuyến khích rước lễ hàng ngày. Ngoài nhiệm vụ dạy học, ngài còn là người giảng phòng và giảng thuyết tài ba. Nhiều tù nhân được ngài giúp đỡ và ra đi an bình trong Chúa.
Thánh Gioan Bosco là học trò của thánh Giuse Cafasso. Thánh Giuse Cafasso thúc giục thánh Gioan Bosco thành lập Dòng Salediêng để làm việc với giới trẻ ở Turin. Ngài được phong thánh năm 1947.
----------------------------------------------
(*) Jansenism: Thuyết Gian-sen của thần học gia Công giáo Cornelis Jansen (1585–1638), phủ nhận ý tự do và cho rằng bản chất con người hư hỏng, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo [1650-60].

18/6 – Bậc đáng kính Matt Talbot, Thợ xây (1856-1925)
Matt có thể được coi là bổn mạng những người cố gắng bỏ rượu.
Ngài sinh tại Dublin, cha ngài phải lao động cực nhọc để nuôi gia đình. Theo học vài năm, Matt có việc làm là người đưa tin cho các thương gia buôn rượu thuốc. Rồi ngài bắt đầu uống rượu nhiều suốt 15 năm, đến khi 30 tuổi thì ngài đã nghiện rượu nặng.
Một hôm, ngài quyết định xưng tội và đi lễ hàng ngày. Trong 7 năm đầu, từ khi cương quyết bỏ rượu, thật khổ sở vì thèm rượu. Để tránh tái nghiện, ngài bắt đầu cầu nguyện nhiều, cố gắng trả nợ những người mà ngài đã vay hoặc ăn cắp tiền khi còn mê rượu.
Ngài gia nhập Dòng Ba Phanxicô và bắt đầu sống đền tội nghiêm ngặt. Mỗi năm ngài kiêng thịt 9 tháng. Mỗi đêm ngài dùng nhiều thời gian để đọc Kinh thánh và hạnh các thánh. Ngài cũng lần Chuỗi Mân Côi nhiều.
Cả đời ngài là thợ xây dựng. Dù công việc ngài làmkhông được nhiều tiền nhưng ngài rất siêng năng cần mẫn. Sau năm 1923, sức khỏe ngài yếu kém nên phải nghỉ làm việc. Ngài qua đời khi đang trên đường tới nhà thờ dự lễ Chúa Ba Ngôi. 50 năm sau, ĐGH Phaolô VI tôn phong ngài là bậc đáng kính.

19/6 – Thánh Romuald, Linh mục (950?-1027)
Sau khi phung phí tuổi trẻ, Romuald chứng kiến cha mình giết một người thân vì cảnh nghèo túng. Sợ quá, ngài trốn vào tu viện gầnRavenna ở Italy. Sau 3 năm, vài tu sĩ phát hiện ngài và giúp đỡ ngài.
30 năm kế tiếp, ngài đi khắp nước Ý, mở nhiều tu viện và nhà ẩn tu. Ngài ao ước hiến mình cho Chúa bằng cách tử đạo. Ngài được phép của ĐGH đi truyền giáo ở Hungary. Nhưng vừa đến nơi thì ngài bị bệnh, và cứ tái phát nhiều lần. Có một thời gian ngài phải chịu đựng lòng khô khan đạo hạnh. Một hôm, khi ngài cầu nguyện bằng thánh vịnh: “Ta sẽ ban cho con sự hiểu biết và sẽ dạy dỗ con”, ngài cảm thấy một luồng ánh sáng kỳ lạ.
Nơi tu viện ngài ở, ngài bị kết tội xấu xa nhục nhã vì một phụ nữ quý tộc trẻ. Ngài bị khiển trách vì sống phóng đãng. Lạ thay, người bạn tu sĩ của ngài lại tin lời cáo buộc đó. Ngài bị phạt nặng, bị cấm làm lễ và dứt phép thông công, ngài chịu oan ức như vậy 6 tháng thì mọi chuyện “hai năm rõ mười”.
Tu vện nổi tiếng nhất mà ngài thành lập là Tu viện Camaldoli (Campus Maldoli, tên của chủ nhân) ở Tuscany. Tại đây ngài thành lập Dòng Thánh Biển Đức Camaldoli (Order of the Camaldolese Benedictines), kết hợp đời sống tu viện và ẩn tu. Về sau, chính cha ngài cũng là tu sĩ, nhờ ngài lay động và khuyến khích giữ đức tin.

20/6 – Thánh Paulinô Nola, Giám mục (354?-431)
Thánh Paulinô Nola là bạn của các thánh Augustinô, Giêrônimô, Melania, Martin, Gregoriô và Ambrôsiô.
Ngài sinh ở gần Bordeaux, là con của quận công Gaul. Ngài là luật sư có tiếng, giữ vài chức vụ trong đế quốc Rôma. Vợ ngài là người Tây Ban Nha, tên là Therasia, ngài nghỉ hưu non và sống thanh thản.
Hai vợ chồng ngài được ĐGM thánh thiện của giáo phận Bordeaux rửa tội và chuyển sang quê vợ ở Tây Ban Nha. Sau nhiều năm họ mới có một con trai nhưng lại chết khi mới được 1 tuần tuổi. Ngài bắt đầu sống khắc khổ và bác ái, phân phát của cải cho người nghèo. Có thể vì vậy mà Paulinô bất ngờ được ĐGM giáo phận Barcelona phong chức linh mục vào dịp lễ Giáng sinh.
Lúc đó ngài và vợ chuyển đến Nola, gần Naples. Ngài rất sùng kính thánh Felix Nola nên cố gắng truyền bá lòng sung kính vị thánh này. Ngài chia đa số phần tài sản còn lại của mình (trước sự ngạc nhiên của những người thân), tiếp tục phục vụ người nghèo và hỗ trợ những con nợ, rồi sống ẩn dật. Vì nhiều người yêu cầu, ngài chấp nhận làm giám mục giáo phận Nola và điều hành giáo phận 21 năm.
Những năm cuối đời ngài sống trong cảnh u buồn vì người Huns xâm lăng. Trong số các tác phẩm của ngài có ca khúc về đám cưới Kitô giáo mà ngày nay còn lưu hành.

21/6 – Thánh Luy Gonzaga (1568-1591)
Bất kỳ ở đâu Thiên Chúa cũng có thể tạo nên các thánh, thậm chí ngay giữa thời Phục hưng (Renaissance). Florence là người mẹ sùng đạo của Luy Gonzaga dù phải tiếp xúc với một xã hội lọc lừa, hung dữ, độc ác và dâm ô”. Là con một gia đình quý tộc, Luy Gonzaga lớn lên trong cung đình và doanh trại quân đội. Cha ngài muốn ngài trở nên anh hùng quân đội.
Lúc 7 tuổi, ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về tâm linh. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ, cầu nguyện bằng thánh vịnh và sống thánh thiện. Lúc 9 tuổi, ngài đếnFlorence để học tập. Lúc 11 tuổi, ngài dạy giáo lý cho trẻ em nghèo, mỗi tuần ăn chay 3 ngày và tập sống khổ hạnh. Lúc 13 tuổi, ngài theo cha mẹ và Nữ hoàng Áo đến Tây Ban Nha, làm gia nhân trong cung đình của Vua Philip II. Càng biết đời sống trong triều, ngài càng hiểu nhiều điều, rồi ngài tìm hiểu đời sống các thánh. Cuốn sách về các nhà truyền giáo ở Ấn Độ giúp ngài muốn gia nhập Dòng Tên tại Tây Ban Nha.
Ngài sống rất khắc khổ dù phải học hành nhiều. Ngài được học triết học và được thánh Robert Bellarmine làm linh hướng. Năm 1591, đại dịch hoành hành Rôma. Các tu sĩ Dòng Tên mở một bệnh viện trong thành phố. Chính ngài cũng bị lây bệnh và qua đời trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa (Corpus Christi) lúc ngài mới 23 tuổi.

22/6 – Thánh Thomas More, Tử đạo (1478-1535)
Ngài bị chém đầu trên Đồi Tower, Luân đôn, ngày 6-7-1535, vì cương quyết chống lại việc ly dị và tái hôn của Vua Henry VIII, đồng thời chống lại việc thành lập Giáo hội Anh giáo.
Ngài mệnh danh là “người của mọi lý lẽ” vì ngài là một học giả văn chương, một luật sư nổi trội, một người hiền từ. Ngài là cha của 4 người con và là đại pháp quan của Anh quốc. Ngài là người tâm linh mạnh, không ủng hộ nhà vua ly hôn với Catherine để kết hôn với Anne Boleyn. Ngài cũng không nhận vua Henry là người tối thượng của Giáo hội Anh quốc, ly khai với Rôma và phủ nhận ĐGH là trưởng Giáo hội.

23/6 – Thánh Gioan Fisher, Giám mục (1469-1535)
Gioan Fisher thường kết hợp với thánh Erasmô, Thomas More và các nhà nhân văn thời Phục hưng (Renaissance). Ngài là người có học thức, biết cả về chính trị. Ngài thích văn hóa đương đại và và làm hiệu trưởng ĐH Cambridge. Ngài được bổ nhiệm Giám mục lúc 35 tuổi, một trong các mối quan tâm của ngài là tiêu chuẩn giảng đạo tại Anh quốc. Ngài không chỉ giảng thuyết mà còn viết sách. Các bài giảng của ngài về các thánh vịnh được tái bản tới 7 lần khi ngài còn sống. Khi giáo phái Tin lành Lutherô xuất hiện, ngài đã phản đối. Ngài viết 8 cuốn sách phản đối Tin lành, và ngài trở thành thần học gia nổi tiếng ở Âu châu.
Năm 1521, người ta yêu cầu ngài nghiên cứu vấn đề hôn nhân của vua Henry VIII. Ngài chịu đựng cơn tức giận của vua Henry bằng cách bênh vực tính hợp lệ hôn nhân của nhà vua với Catherine nên bị vua Henry phản đối.
Vua Henry kết án ngài không tường trình các “phát hiện” về nữ tu Elizabeth Barton ở Kent. Ngài bị triệu đến, trong tình trạng sức khỏe yếu kém, để thề theo luật kế vị mới (new Act of Succession). Ngài và thánh Thomas More từ chối vì luật này chấp nhận tính hợp pháp hôn nhân của vua Henry và là trưởng Anh giáo. Ngài bị đưa lên Đồi Tower sau khi bị tù 14 tháng mà không xét xử.
Khi ngài và thánh Thomas More bị thẩm vấn thêm thì các ngài im lặng. Nhà vua bực tức vì ĐGH đã bổ nhiệm Gioan Fisher làm hồng y, thế là ngài bị kết tội và bị xử tử. Thi hài ngài bị bỏ nằm đó suốt ngày, còn đầu ngài bị treo trên cầu Luân đôn. Còn thánh Thomas More bị hành quyết 2 tuần sau.

24/6 – Sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả
Chúa Giêsu gọi thánh Gioan là người cao trọng nhất: “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an; tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông” (Lc 7:28).
Ngài sống khổ hạnh trong hoang địa, bắt đầu rao giảng Nước Trời và kêu gọi mọi người canh tân đời sống. Ngài là người dọn đường cho Chúa Giêsu đến. Ngài nói Phép rửa của ngài là để ăn năn sám hối. Nhưng Đấng đến sau ngài sẽ làm Phép rửa bằng Lửa và Thánh Thần. Ngài tự nhận không đáng xách dép cho Đấng đó. Thái độ của ngài đối với Chúa Giêsu là:“Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3:30).
Thánh Gioan đã biết ai là Đấng Thiên Sai: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14b). Nhưng Chúa Giêsu nói: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15b).
Thánh Gioan đã thu hút vô số người đến bờ sông Giođan, nhưng ngài luôn làm theo ý Chúa Giêsu, ngay cả việc sai một số những người theo Chúa trở thành các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Ngài đã sai một số môn đệ của ngài (khi ngài ở trong tù) đến hỏi Chúa Giêsu xem có phải là Đấng Thiên Sai hay không. Chúa Giêsu trả lời rằng Đấng Thiên Sai là Người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Chính thánh Gioan đã thông phần đau khổ, chịu chém đầu vì Herodias.

25/6 – Chân phước Jutta Thuringia (qua đời năm 1264?)
Nhân đức và lòng sùng kính là điều quan trọng đối với CP Jutta và chồng bà. Hai vợ chồng bà đều là giới quý tộc, cùng đi hành hương đến nhiều nơi tại Thánh địa Giêrusalem, nhưng chồng bà qua đời trên đường đi hành hương. Sau khi lo cho các con xong, góa phụ Jutta quyết định phân phát của cải để sống cho Chúa bằng cách vào Dòng Ba Phanxicô.
Bà quan tâm người nghèo, săn sóc người mù và các bệnh nhân, đặc biệt là người phong cùi. Nhiều người trong thành phố Thuringia thấy vậy thì cười nhạo bà. Tuy nhiên, bà vẫn thấy khuôn mặt Chúa nơi dân nghèo.
Khoảng năm 1260, không lâu trước khi qua đời, Jutta đã sống gần những người ngoại giáo ở Đông Đức. Tại đó bà xây dựng một nhà ẩn tu và không ngừng cầu nguyện cho họ trở lại. Bà được tôn phong là vị bảo trợ đặc biệt của Prussia.

26/6 – Chân phước Raymond Lull, Nhà truyền giáo (1235-1315)
Chân phước Raymond Lull sinh tại Palma, trên đảo Mallorca, thuộc Địa Trung Hải. Ngài có một vị trí trong triều đình ở đó. Một hôm, một bài giảng đã đánh động ngài tận hiến cuộc đời hoạt động để hoán cải các tín đồ Hồi giáo ở Bắc Phi. Ngài gia nhập Dòng Ba Phanxicô và thành lập trường đại học để các nhà truyền giáo học tiếng Ả Rập cần thiết cho việctruyền giáo. Khi nghỉ hưu, ngài sống ẩn dật 9 năm. Trong thời gian đó, ngài viết đủ loại sách, nên người ta gọi ngài là “Tiến sĩ được khai sáng” (Enlightened Doctor).
Ngài có nhiều chuyến đi khắp Âu châu làm cho các giáo hoàng, các vua chúa và các hoàng tử bằng lòng thành lập các trường đại học để chuẩn bị tương lai cho các nhà truyền giáo. Ngài đạt được mục đích năm 1311 khi công đồng Vienne ra lệnh thành lập các khoa tiếng Do Thái, tiếng Ả Rập và tiếng Chaldean tại các trường đại học Bologna, Oxford, Paris và Salamanca. Năm 1314, lúc 79 tuổi, ngài đi truyền giáo ở Bắc Phi. Ngài bị một đám người Hồi giáo quá khích ném đá ở thành phố Bougie. Các thương gia Genoa đưa ngài về đảoMallorca và ngài qua đời. Ngài được phong chân phước năm 1514.

27/6 – Thánh Cyrilô Alexandria, Giám mục (376?-444)
Ngài phá và đóng cửa các nhà thờ dị giáo theo thuyết cải cách, tham gia vào việc truất phế thánh Gioan Chrysostom và xung công quỹ tài sản của người Do Thái, bắt đi đày những người Do Thái ở Alexandria để trả đũa việc họ tấn công vào người Kitô giáo.
Tầm quan trọng của ngài về thần học và lịch sử giáo hội là ngài bênh vực nguyên nhân của tính chính thống chống lại tà thuyết của Nestorius. Sự tranh luận tập trung vào 2 bản tính nơi Chúa Kitô. Nestorius không đồng ý danh hiệu “người mang Thiên Chúa” (God-bearer) dành cho Đức Maria. Ngài lại thích cách gọi “người mang Chúa Kitô” (Christ-bearer), ngài nói rằng có hai con người riêng biệt nơi Đức Kitô (Thiên Chúa và con người) chỉ được kết hợp bằng sư liên kết luân lý. Ngài nói rằng Đức Mẹ không là Mẹ Thiên Chúa mà là Mẹ của Đức Kitô làm người, nhân tính của Chúa Giêsu chỉ là đền thờ của Thiên Chúa. Thuyết của Nestorius (Nestorianism) cho rằng nhân tính của Chúa Kitô chỉ là sự cải trang (a mere disguise).
Khi làm đại diện của Đức giáo hoàng tại Công đồng Ephêsô (năm 431), thánh Cyrilô kết án thuyết của Nestorius và tuyên bố Đức Maria thực sư là “người mang Thiên Chúa” (Mẹ của một người thực sự là Thiên Chúa và thực sự là con người). Theo sau sự lầm lẫn, Cyrilô bị truất phế và bị tù 3 tháng, sau đó ngài lại được tiếp đón về Alexandria như một Athanasiô đệ nhị (thánh Athanasiô vô địch về chống tà thuyết Arian (*).
Tới khi ngài qua đời, phương cách hiện đại hóa của ngài vẫn có nhiều người ủng hộ. Lúc hấp hối, dù bị áp lực, ngài vẫn từ chối kết tội Nestorius.
----------------------------------------
(*) Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Công đồng Nicê (năm 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi (Chú thích của người dịch).

28/6 – Thánh Irênê, Giám mục Tử đạo (130?-220)
Giáo hội may mắn có thánh Irênê liên quan nhiều cuộc tranh luận của Giáo hội hồi thế kỷ II. Chắc chắn ngài là người có học thức, rất kiên nhẫn nghiên cứu, bảo vệ các giáo huấn tông truyền, nhưng thúc đẩy nhiều bằng ước muốn thắng các đối thủ hơn là chứng tỏ cho họ thấy những cái sai.
Là giám mục giáo phận Lyons, ngài đặc biệt quan tâm về “bí truyền tâm linh” (Gnostics, theo tiếng Hy Lạp nghĩa là “kiến thức”). Để biết kiến thức bí mật được Chúa Giêsu truyền lại cho một số ít các môn đệ, giáo huấn của họ vừa thu hút vừa làm nhiều tín hữu hiểu lầm. Sau khi tham khảo nhiều giáo phái bí truyền (Gnostic sects) và “bí mật” của họ, ngài có kết luận hợp lý theo giáo lý của họ. Ngài làm tương phản với các giáo huấn của các tông đồ và văn bản Kinh thánh, ngài đã để lại cho chúng ta 5 cuốn sách hệ thống thần học về tầm quan trọng đối với các thời đại sau. Hơn nữa, tác phẩm của ngài được dùng rộng rãi và được dịch sang tiếng Latin và tiếng Armenia, dần dần có ảnh hưởng tới bí truyền.
Chi tiết về cái chết của ngài, kể cả ngày tháng năm sinh và thời trẻ của ngài ở Tiểu Á, đều không biết rõ.

29/6 – Các thánh Phêrô và Phaolô, Tông đồ (qua đời năm 64 & 67)
Thánh Phêrô: Ngài đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8:29b). Đó là một trong những khoảnh khắc vinh quang trong đời ngài, bắt đầu từ ngày ngài được Chúa Giêsu gọi bỏ lưới ở biển Galilê tới lúc trở thành kẻ chài lưới người ta.
Tân ước cho thấy thánh Phêrô là tông đồ trưởng, được Chúa Giêsu chọn để có quan hệ đặc biệt. Cùng với Giacôbê và Gioan, nthánh Phêrô được ưu tiên chứng kiến giây phút Chúa biến hình, làm cho đứa trẻ hồi sinh và giây phút hấp hối trong vườn Giệtsimani, nhạc mẫu ngài được chữa lành. Ngài được sai đi cùng thánh Gioan chuẩn bị lễ Vượt qua trước khi Chúa Giêsu chịu chết.
Chúa Giêsu đã nói với ngài: “Anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:17-19).
Thánh Phêrô bỏ tất cả mà theo Chúa, ngài hỏi Chúa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19:27). Ngài được ưu tiên, nhưng ngài cũng bị Chúa Giêsu trách mắng nặng nhất: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23).
Ngài sẵn sàng chấp nhận giáo lý tha thứ của Chúa Giêsu, nhưng chỉ giới hạn là 7 lần. Ngài tin và đi trên mặt biển đến với Chúa, nhưng ngài lại sợ và chìm dần. Ngài từ chối cho Chúa rửa chân, nhưng rồi lại muốn Chúa rửa cả đầu và mình nữa. Tại Bữa Tiệc Ly, ngài thề không bỏ Chúa, nhưng ông đã chối Chúa ngay trước mặt người tớ gái. Ngài thể hiện lòng trung thành và thẳng tính nên chém đứt tai của Mancô (Malchus), nhưng cuối cùng cũng bỏ chạy với những người khác. Trong sâu thẳm nỗi ân hận, Chúa Giêsu đã quay lại và tha thứ cho thánh Phêrô, và ngài liền ra ngoài khóc lóc thảm thiết vì ăn năn.
Thánh Phaolô: Sức thuyết phục của thánh Phaolô là đơn giản và tuyệt đối: Chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ cứu độ nhân loại. Không nỗ lực nào của con người có thể tạo nên người tốt. Để được cứu độ, con người phải hoàn toàn mở lòng mình ra với ơn cứu độ của Chúa Giêsu.
Ngài luôn yêu quý gia đình Do Thái của mình, dù ngài tranh luận cả đời với họ về sự vô ích của Lề luật nếu không có Chúa Giêsu. Ngài tự thú: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Ngài căn dặn chúng ta: “Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình để anh em khỏi sờn lòng nản chí. Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu” (Dt 12:3-4).

30/6 – Các thánh tử đạo tiên khởi Rôma (qua đời năm 68)
Có những Kitô hữu ở Rôma trong khoảng hơn 10 năm sau khi Chúa Giêsu bị giết chết, dù họ không là những người trở lại đạo nhờ “vị tông đồ dân ngoại” (Rm 15:20). Thánh Phaolô chưa hề đến thăm họ khi ngài viết thư gởi giáo đoàn Rôma vào khoảng năm 57-58.
Có nhiều người Do Thái ở Rôma. Có thể là kết quả tranh luận giữa người Do Thái và các Kitô hữu người Do Thái, hoàng đế Claudius trục xuất hết người Do Thái ở Rôma năm 49-50. Sử gia Suetonius nói rằng sự trục xuất là do náo động trong thành phố “gây ra bởi một ông Kitô nào đó”. Có thể nhiều người trở lại sau khi Claudius băng hà năm 54. Thư của thánh Phaolô gởi cho giáo đoàn có các thành viên là người Do Thái và dân ngoại.
Tháng 7 năm 64, hơn một nửa Rôma bị thiêu cháy. Người ta đổ lỗi cho Nero, người muốn mở rộng bờ cõi của mình, luôn nguyền rủa các Kitô hữu. Theo sử gia Tacitus, nhiều Kitô hữu bị sát hại vì nòi giống. Thánh Phêrô và Phaolô có thể cũng là nạn nhân trong số này.
Bị kết án tử, Nero đã tự sát năm 68 lúc 31 tuổi.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)

Hạnh Các Thánh Tháng 5

Trang Tin Điện tử Báo Công Giáo www.baoconggiao.com - Email: baoconggiao.com@gmail.com


Hạnh Các Thánh Tháng 5

1/5 – Đức Thánh Giuse Lao động

Rõ ràng là ngày 1/5 là ngày Quốc tế Lao động dành cho giới công nhân được cộng sản ủng hộ, ĐGH Piô XII thành lập lễ Đức Thánh Giuse Lao động năm 1955. Nhưng mối quan hệ giữa Đức Thánh Giuse và giới công nhân có một lịch sử dài.
Với nỗ lực cố gắng giữ Chúa Giêsu không bị tách khỏi đời sống con người bình thường, tứ đầu giáo hội đã nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu là thợ mộc (carpenter), được Đức Thánh Giuse đào tạo cả về nhiệm vụ lẫn sự vất vả của nghề nghiệp. Con người giống Thiên Chúa không chỉ về suy nghĩ và yêu thương mà còn về cách sáng tạo. Dù chúng ta đóng một cái bàn hay làm một thánh đường, chúng ta vẫn được mời gọi sinh lợi từ đôi tay và khối óc của mình, đặc biệt là xây dựng Nhiệm thể Đức Kitô.

2/5 – Thánh Athanasiô, Giám mục Tiến sĩ (295?-373)

Athanasiô sống cuộc đời huyên náo nhưng tận hiến phục vụ Giáo hội. Ngài là nhà vô địch về đức tin chống lại tà thuyết Arian. Sức mạnh của các bài viết của ngài khiến ngài được giáo hội tôn phong là Tiến sĩ Giáo hội.
Ngài sinh trong một gia đình Kitô giáo ở Alexandria, Ai Cập, được giáo dục theo lối cổ điển, đi tu làm linh mục, rồi làm thư ký cho ĐGM Alexander, giáo phận Alexandria. Rồi chính ngài cũng được bổ nhiệm giám mục. Vị tiền nhiệm của ngài là ĐGM Alexander đã phê bình thẳng thắn phong trào phát triển ở Đông phương – tức là tà thuyết Arian.
Khi ĐGM Athanasiô quản nhiệm giáo phận Alexandria, ngài tiếp tục chống tà thuyết này. Mới đầu có vẻ không khó lắm khi kết án tà thuyết Arian. Tuy nhiên, chuyện không đơn giản. Công đồng Tyre được triệu tập với vài lý do vẫn chưa rõ, hoàng đế Constantine bắt ĐGM Athanasiô đi đày ở Bắc Gaul. Đây là lần đầu tiên trong các cuộc đi đày gợi nhớ đến cuộc đời thánh Phaolô.
Sau khi Constantine băng hà, con trai ông phục hồi cương vị giám mục cho Athanasiô. Tuy nhiên, cương vị giám mục chỉ kéo dài 1 năm, rồi ngài lại bị truất phế vì sự cấu kết của các giám mục theo tà thuyết Arian. Ngài đi Rôma, và ĐGH Juliô I triệu tập hội đồng giám mục để xem xét trường hợp của ngài và các vấn đề liên quan.
Ngài bị đi đày 5 lần vì bảo vệ tín lý về thiên tính của Chúa Kitô. Thời gian đầu, ngài sống tương đối an bình trong 10 năm – đọc sách, viết lách và thúc đẩy đời sống Kitô giáo cùng với lý tưởng tu trì mà ngài rất tận tụy. Những bài viết về giáo lý và lịch sử của ngài hầu như là bút chiến (polemic), trực tiếp chống lại mọi phương diện của tà thuyết Arian.
Trong số những bài viết về đời tu khổ hạnh của ngài, cuốn Life of St. Anthony (Cuộc đời Thánh Antôn) được chú ý nhiều và góp công vào việc thành lập đời sống dòng tu ở khắp Tây phương.


3/5 – Thánh Philipphê và Giacôbê, Tông đồ

+ Giacôbê là con của Alphaeus: Chúng ta không biết gì về ngài ngoài tên gọi, và sự thật là Chúa Giêsu đã chọn ông làm 12 cột trụ của Israel mới, tức là Giáo hội. Ngài không là Giacôbê trong sách Công vụ, con của Clopas, “anh em” của Chúa Giêsu, sau đó là giám mục Giêrusalem và là tác giả của Thư Thánh Giacôbê. Giacôbê là con của Alphaeus được gọi là Giacôbê Nhỏ để tránh lầm lẫn với Giacôbê là con của Dêbêđê, cũng là tông đồ và là Giacôbê Cả.
+ Philipphê ở cùng thành phố của thánh Phêrô Anrê, là Bethsaiđa ở Galilê. Chúa Giêsu trức tiếp gọi ngài, lúc đó Chúa thấy Nathanael và gọi ông là “người mà Môsê đã nhắc tới” (Ga 1:45).
Cũng như các tông đồ khác, Philipphê phải mất một thời gian dài mới nhận biết Chúa Giêsu là ai. Một lần nọ, Chúa Giêsu thấy nhiều người đi theo Ngài và muốn cho họ ăn, Ngài hỏi Philipphê có thể mua bánh cho họ ăn không. Thánh Gioan viết: “Chúa Giêsu nói thế để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. Ông Philípphê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:6-7).
Chuyện kể của thánh Gioan không có ý “nói xấu” Philipphê. Đơn giản là cần thiết để những người này là “nền móng” của giáo hội có thể phân biệt rõ sự bơ vơ của con người khác với Thiên Chúa, khả năng của con người có thể chịu được thần lực nhờ tặng phẩm của Thiên Chúa.
Một dịp khác, sau khi thánh Tôma giải thích rằng họ không biết Chúa Giêsu sắp đi đâu, Chúa Giêsu nói:“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy NgườiÔng Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện. Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:6-9).
Có thể vì thánh Philipphê là người có tên Hy Lạp hoặc vì được coi là thân cận với Chúa Giêsu, một số người mới nhập đạo đến gặp ông và nhờ ông giới thiệu với Chúa Giêsu. Philipphê đi gặp Anrê, và Anrê đi gặp Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa Giêsu chỉ nói gián tiếp. Ngài nói rằng “giờ” của Ngài đã đến, Ngài sẽ trao ban sự sống của Ngài cho cả người Do Thái và dân ngoại.

4/5 – Chân phước Michael Giedroyc (khoảng năm 1485)
Cuộc sống đau khổ cả thể lý lẫn tinh thần vẫn không thể ngăn cản Michael Giedroyc sống thánh thiện.
Ngài sinh gần Vilnius, Lithuania, và bị khuyết tật bẩm sinh. Ngài thấp bé và chỉ có một chân. Vì khuyết tật, việc học tập của ngài cũng thường bị gián đoạn, nhưng ngài chứng tỏ khả năng đặc biệt về làm đồ kim loại. Ngài khéo léo làm những chén thánh bằng đồng và bạc.
Ngài tới Cracow, Ba Lan, và nhập dòng thánh Augustinô. Ngài được phép sống ẩn tu trong phòng. Ngài chuyên cần cầu nguyện, ăn chay và hãm mình, nhưng sống thọ. Ngài hiểu ý nghĩa sự đau khổ qua cuộc đời ngài, nhưng ngài giàu về tâm linh và điều đó đã an ủi ngài. Ngài qua đời khoảng năm 1485 ở Cracow.
500 năm sau, chân phước Gioan-Phaolô II đã đến thăm thành phố này và nói với bạn giảng huấn của Học viện Giáo hoàng Thần học (Pontifical Academy of Theology) rằng thế kỷ 15 ở Cracow là “thế kỷ của các thánh”, trong đó có chân phước Michael Giedroyc.

5/5 – Thánh Hilary Arles, Giám mục (400-449)
Người ta thường nói tuổi trẻ hay lãng phí. Theo cách nào đó, cuộc đời thánh Hilary Arles cũng vậy.
Ngài sinh tại Pháp, trong một gia đình quý tộc. Khi đi học, ngài gặp một người thân là ĐGM Hônôratô, và người này đã giúp ngài đi tu. Ngài tiếp tục theo bước của ĐGM Hônôratô. Ngài làm linh mục, rồi ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Arles khi mới 29 tuổi.
Giám mục trẻ lãnh sứ vụ với lòng tự tin. Ngài lao động chân tay để kiếm tiền cho người nghèo. Ngài bán chén lễ để chuộc các tù nhân. Ngài giảng thuyết rất hùng hồn. Ngài đi bộ khắp nơi và luôn mặc quần áo giản dị.
Nhưng ngài cũng gặp khó khăn trong các mối quan hệ với các giám mục khác mà ngài đã phê phán. Ngài đơn phương một phe. Ngài chọn một giám mục khác để thay thế giám mục bị bệnh, phức tạp hóa các vấn đề, nhưng không đến nỗi! Thánh Giáo hoàng Lêô Cả giữ ngài làm giám mục nhưng tước một số quyền của ngài. Thánh Hilary là người có tài nhưng có lòng thương người.

6/5 – Thánh Marian và James, Tử đạo (khoảng năm 259)
Thường thì khó tìm được nhiều chi tiết về đời sống của các thánh thời giáo hội sơ khai. Những gì chúng ta biết về các thánh tử đạo hồi thế kỷ III mà chúng ta kính nhớ hôm nay cũng rất ít. Nhưng chúng ta biết rằng các ngài đã sống và đã chết vì đức tin. Gần 2.000 năm sau, chúng ta có đủ lý do để tôn kính các ngài.
Sinh tại Bắc Phi, Marian là thầy giảng; James là phó tế. Vì đức tin mà các ngài bị hành xử. Không lâu trước khi bị hành xử, Marian và James được 2 giám mục đến thăm và khuyến khích vì đức tin. Một thời gian sau, Marian và James bị bắt và thẩm vấn. Các ngài mạnh dạn tuyên xưng đức tin, rồi bị hành hạ. Ở trong tù, các ngài thấy thị kiến, một trong hai vị giám mục kia cũng có thị kiến. Các ngài bị bịt mắt và bị giết chết, rồi họ ném thi hài các ngài xuống sông.

7/5 – Chân phước Rose Venerini (1656-1728)

Rose sinh tại Viterbo, Ý, là ái nữ của một vị bác sĩ. Sau khi vị hôn phu của bà qua đời, bà vào dòng, nhưng không lâu sau bà về nhà để chăm sóc mẹ già. Khi đó, bà quy tụ các phụ nữ đến nhà mình cùng lần chuỗi Mân côi, tạo sự đoàn kết với nhau.
Được một linh mục Dòng Tên hướng dẫn, chân phước Rose tin rằng mình được gọi làm giáo viên hơn là một nữ tu chiêm niệm trong nhà dòng. Rõ ràng bà đã chọn đúng: Năm 1685, bà mở trường cho các em gái và được mọi người đón nhận.
Đức hồng y mời bà đảm trách việc đào tạo các giáo viên và quản lý các trường học trong giáo phận Montefiascone. Danh tiếng của bà lan truyền, người ta yêu cầu bà mở các trường học ở nhiều nơi trong nước Ý, kể cả Rôma. Cách bố trí của bà đúng với từng người, tuy bà thường xuyên gặp đối lập nhưng không bao giờ bị bác bỏ. Nhóm phụ nữ thường được quy tụ để cầu nguyện cuối cùng trở thành Dòng nữ Venerini (Venerini Sisters). Ngày nay, dòng có ở Hoa Kỳ và nhiều nơi khác, hoạt động giữa cộng đồng người Ý nhập cư.
Bà qua đời tại Rôma năm 1728. Có nhiều phép lạ người ta nói là do bà làm. Bà được phong chân phước năm 1952.

8/5 – Thánh Phêrô Tarentaise, Giám mục (khoảng năm 1102-1175)
Có hai thánh Phêrô Tarentaise sống cách nhau một thế kỷ. Vị thánh được kính nhớ hôm nay là thánh Phêrô Tarentaise trẻ, sinh ở Pháp hồi đầu thế kỷ 12. (Thánh Phêrô Tarentaise khác là Giáo hoàng Innocent V).
Thánh Phêrô Tarentaise là tu sĩ dòng Xitô (Cistercian monk), rồi làm tu viện trưởng. Năm 1142, ngài được bổ nhiệm làm tổng giám mục giáo phận Tarentaise, thay thế giám mục bị cách chức (deposed) vì thoái hóa. Thánh Phêrô Tarentaise nhiệt tâm làm nhiệm vụ. Ngài cải cách giáo phận, thay thế các giáo sĩ buông thả (lax clergy) và đến với dân nghèo. Ngài thường xuyên đến các vùng sơn cước trong giáo phận.
Sau khoảng 10 năm làm giám mục, ngài “biến mất” một năm và sống ẩn dật tại một tu viện ở Thụy Sĩ. Ngài bị phát hiện và lại đành trở về cương vị giám mục. Ngài rất chú trọng tới người nghèo. Đức giáo hoàng phái ngài đi giải hòa với vua nước Pháp và nước Anh nhưng bất thành công. Trên đường về tòa giám mục thì ngài qua đời.

9/5 – Thánh Catarina Bôlônha (1413-1463)

Thánh Catarina sống phụng sự Chúa trong sự ẩn dật. Bà sinh tại Bologna, thuộc dòng dõi quý tộc ở Ferrara và được học về ngành tòa án ở đó. Bà thích và có năng khiếu hội họa. Bà là nữ tu Dòng Thánh Clara khó nghèo (Poor Clare). Những năm cuối đời, đôi khi bà vẽ những bức tiểu họa (miniatures).
Lúc 17 tuổi, bà vào dòng nữ ở Ferrara. Bốn năm sau, nhóm của bà sáp nhập Dòng Thánh Clara cũng trong thành phố đó. Bà làm những việc như làm bánh và gác cổng, rồi bà được chọn làm giáo tập (novice mistress).
Năm 1456, bà và 15 chị em khác được sai đi lập Dòng Thánh Clara khó nghèo ở Florence. Là tu viện trưởng, thánh Catarina nỗ lực duy trì cộng đoàn mới. Sự thánh thiện của bà thu hút nhiều phụ nữ trẻ đi tu. Bà được phong thánh năm 1712.

10/5 – Chân phước Damien Molokai (1840-1889)

Khi Joseph de Veuster sinh tại Tremelo, Bỉ, năm 1840, một số người ở Âu châu chưa biết về bệnh phong cùi. Lúc ngài qua đời ở tuổi 49, nhờ ngài mà khắp thế giới đều biết về bệnh này.
Phải nghỉ học từ lúc 13 tuổi để làm việc ở trang trại của gia đình. Sáu năm sau, ngài vào Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ (Congregation of the Sacred Hearts of Jesus and Mary), và lấy tên của vị y sĩ tử đạo hồi thế kỷ IV. Khi anh ngài là Pamphile, một linh mục cùng dòng với ngài, bị bệnh và không thể đến đảo Hawaii như được sai đi, Damien tự nguyện thay thế. Tháng 5/1864, 2 tháng sau khi đến vùng đất mới, ngài được thụ phong linh mục tại Honolulu và được sai tới đảo Hawaii.
Năm 1873, ngài đến đảo Molokai (thuộc địa của Hawaii), thành lập 7 năm trước. Mỗi nhóm truyền giáo đảm trách mỗi năm 3 tháng ở đó, nhưng Damien tình nguyện ở lại luôn, ngài chăm sóc bệnh nhân cả về thể lý lẫn tinh thần, và được chính phủ hỗ trợ.
Ngài cho xây dựng nhiều căn nhà, giáo đường, trường học và trại mồ côi. Vài năm sau, ngài được sự hỗ trợ của Dòng nữ Phanxicô Syracuse (Franciscan Sisters of Syracuse), bề trên là mẹ Marianne Kope.
Ngài bị bệnh phong và qua đời vì bị biến chứng. Theo yêu cầu, ngài được an táng tại Kalaupapa, nhưng năm 1936, chính phủ Bỉ đưa thi hài ngài về Bỉ. Một phần thi hài của ngài được giao lại cho người Hawaii sau khi ngài được phong chân phước năm 1995.
Khi Hawaii trở thành đảo quốc năm 1959, người ta chọn chân phước Damien là một trong hai tượng tiêu biểu tại Phòng điêu khắc (Statuary Hall) ở Trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ (U.S. Capitol).

11/5 – Thánh Inhaxiô Lacôni (1701-1781)

Inhaxiô là một tu sĩ khất thực. Ngài là con thứ hai trong 7 người con của một gia đình nông dân ở Sardinia. Con đường vào Dòng Phanxicô của ngài rất khác thường. Khi bị bệnh nặng, ngài hứa sẽ đi tu Dòng Phanxicô nếu khỏi bệnh. Ngài khỏi bệnh nhưng không giữ lời hứa. Rồi ngài bị tai nạn khiến ngài nhớ lại lời hứa, khi đó ngài mới 20 tuổi. Ngài có tiếng về hy sinh và bác ái nên ngài được cắt cử đi khất thực chính cho các tu sĩ ở Cagliari. Ngài đi khất thực 40 năm. Hai năm cuối đời ngài bị mù.
Khi đi khất thực, ngài thường dạy dỗ trẻ em, thăm viếng bệnh nhân và thúc giục các tội nhân ăn năn trở lại. Người dân Cagliari được cảm hứng nhờ lòng tử tế và lòng trung thành của ngài đối với công việc. Ngài được phong thánh năm 1951.

12/5 – Thánh Nêrêô và Akilêô, Tử đạo (Thế kỷ I)

Cúng ta không biết nhiều về các vị thánh này. Họ là những binh sĩ của hoàng đế Rôma, trở lại Công giáo, bị đi đày và tử đạo ở đảo Terracina.
Thi hài của họ được an táng ở một hầm mộ gia đình, sau đó là nghĩa trang Domitilla. Năm 1896, De Rossi khai quật và phát hiện ngôi mộ trống ở hầm nhà thờ do ĐGH Sirixiô xây dựng năm 390.
200 năm sau khi họ tử đạo, ĐGH Grêgôriô Cả có bài giảng thứ 28 vào ngày lễ kính nhớ các ngài: “Các vị thánh này, trước khi được tập hợp, đã khinh chê thế gian và không thèm giàu sang phú quý của thế gian”.


13/5 – Đức Mẹ Fatima

Giữa những ngày 13/5 và 13/10/1917, ba trẻ người Bồ Đào Nha được thấy Đức Mẹ hiện ra tại Cova da Iria, gần Fatima, một thành phố cách Lisbon về hướng Bắc 110 dặm (1 dặm là 1.609,31 m). (Xem ngày 20/2, lễ các Chân phước Giaxinta và Phanxicô Martô). Đức Mẹ yêu cầu các em này cầu nguyện cho hòa bình thế giới, xin cho chấm dứt thế chiến I, cầu nguyện cho người tội lỗi và xin cho nước Nga trở lại.
Đức Mẹ trao cho các em 3 bí mật. Từ khi Phanxicô qua đời năm 1919 và Giaxinta qua đời năm 1920. Còn Lucia, sau đó là nữ tu Dòng kín Cát Minh, tiết lộ bí mật thứ nhất năm 1927, liên quan sự tận hiến cho Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ. Bí mật thứ hai là cảnh tượng hỏa ngục.
Chân phước Gioan Phaolô II đã truyền cho Quốc vụ khanh Tòa thánh tiết lộ bí mật thứ ba năm 2000:Một “giám mục áo trắng” bị một nhóm binh sĩ bắn. Nhiều người cho đó là vụ ám sát ĐGH Gioan-Phaolô II tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981.
Năm 1930, lễ Đức Mẹ Fatima được giám mục sở tại phê chuẩn, và năm 2001 lễ này được thêm vào lịch phụng vụ hoàn vũ. Nữ tu Lucia qua đời năm 2005, thọ 97 tuổi.

14/5 – Thánh Matthia, Tông đồ

Theo Cv 1:15-26: Trong những ngày ấy, ông Phêrô đứng lên giữa các anh em – có khoảng một trăm hai mươi người đang họp mặt - Ông nói: “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đavít để nói trước về Giuđa, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giêsu. Y đã là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng tôi. Vậy, con người ấy đã dùng tiền công của tội ác mà tậu một thửa đất; y đã ngã lộn đầu xuống, vỡ bụng, lòi cả ruột gan ra. Điều đó, mọi người ở Giêrusalem đều biết, khiến họ đặt tên cho thửa đất ấy là Khakenđơma, theo tiếng của họ nghĩa là Đất Máu”. Thật thế, trong sách Thánh vịnh có chép rằng: Ước gì lều trại nó phải tan hoang, không còn ai trú ngụ. Và ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó. Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh. Họ đề cử hai người: ông Giôxếp, biệt danh là Basaba, cũng gọi là Giúttô, và ông Mátthia. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Giuđa đã bỏ để đi về nơi dành cho y”. Họ rút thăm, thăm trúng ông Mátthia: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.
Matthia được thêm vào Nhóm Mười Một. Matthia không được nhắc đến tên trong Tân ước.

15/5 – Thánh Isiđôrê, Nông dân (1070-1130)

Isiđôrê là bổn mạng của các nông dân và thôn quê. Ngài cũng là bổn mạng của Madrid, thủ đô Tây Ban Nha, và là bổn mạng của Hội Nông thôn Hoa Kỳ (United States National Rural Life Conference).
Ngài làm cho điền chủ John de Vergas giàu có ở Madrid. Ngài kết hôn với một phụ nữ trẻ là Maria de la Cabeza (phụ nữ này cũng đã được giáo hội phong thánh). Họ có một con trai, nhưng chết khi còn nhỏ.
Isiđôrê có lòng đạo đức sâu sắc. Ngài dậy từ sáng sớm để đến nhà thờ và dành những ngày nghỉ để đến các nhà thờ ở Madrid và các vùng lân cận. Suốt ngày ngài đi cày bừa nhưng vẫn luôn kết hiệp với Chúa. Ngài có tiếng về lòng yêu thương người nghèo, đồng thời cũng yêu quý súc vật.
Ngài qua đời ngày 15/5/1130, và được phong thánh năm 1622 cùng với thánh Inhaxiô Loyola, Phanxicô Xavier, Teresa Avila và Philip Neri. Đó là 5 vị thánh “nổi tiếng” của Tây Ban Nha.

16/5 – Thánh Margaret Cortona (1247-1297)

Margaret sinh trong một gia đình nông dân ở Laviano, Tuscany. Mẹ mất khi Margaret mới 7 tuổi. Bà sống với mẹ kế, khổ quá nên nên bà không thể sống chung. Bà sống không hôn thú với Arsenio 9 năm và có một con trai. Thời gian đó, bà nghi ngờ tình trạng của mình. Giống thánh Augustinô chút gì đó, bà cầu nguyện cho sự khiết tịnh, nhưng bà không khiết tịnh.
Một hôm, bà đang chờ Arsenio thì có con chó đi qua. Nó dẫn bà vào một khu rừng và bà thấy Arsenio bị giết chết ở đó. Điều này khiến bà sống cuộc đời ăn năn đền tội. Bà đưa con trai về Laviano, nhưng không được mẹ kế chấp nhận. Hai mẹ con lại tới Cortona, rồi con trai bà đi tu dòng.
Năm 1277, sau khi trở lại được 3 năm, Margaret vào Dòng Ba Phanxicô. Theo hướng dẫn của linh mục giải tội, bà sống hy sinh, cầu nguyện và đền tội tại Cortona. Tại đây, bà mở một bệnh viện và lập một nhóm Dòng Ba nữ. Noi gương thánh Phanxicô, bà sống khó nghèo và khiêm nhường, tận hiến cho Thánh Thể và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Bà rất bác ái và làm cho nhiều tội nhân trở lại nhờ lời khuyên và sự gợi hứng của bà. Bà được phong thánh năm 1728.

17/5 – Thánh Paschal Baylon, Tu sĩ (1540-1592)

Ngài sinh tại Baylon, Tây Ban Nha. Thời thánh Paschal, hoàng đế Tây Ban Nha ở Tân Thế Giới có quyền lực cao nhất, sau đó Pháp và Anh giảm sức ảnh hưởng này. Thế kỷ 16 được gọi là Thời Hoáng Kim (Golden Age) của Giáo hội ở Tây Ban Nha, vì đất nước này sinh ra thánh Inhaxiô Loyola, Phanxicô Xaviê, Têrêsa Avila, Gioan Thánh giá, Phêrô Alcantara, Phanxicô Sôlanô và Salvator Horta.
Cha mẹ của Paschal nghèo khó nhưng sùng đạo. Từ 7 tới 24 tuổi, ngài chăn chiên và sống khổ hạnh. Ngài cầu nguyện ngay khi đang làm việc và luôn để ý tiếng chuông nhà thờ khi dâng Mình Máu Thánh trong Thánh lễ. Ngài rất chân thật. Có lần ngài đền trả cho chủ những gì chiên ngài chăn làm hư hại.
Năm 1564, ngài vào Dòng Anh Em Hèn Mọn (Dòng Phanxicô) và chuyên cần sống đền tội. Ngài được chọn đi học làm linh mục nhưng ngài xin được làm tu sĩ bình thường. Nhiều lần ngài làm người gác cổng, nấu ăn, làm vườn và hành khất chính cho nhà dòng.
Ngài cẩn trọng giữ lời khấn khó nghèo. Ngài không bao giờ lãng phí thức ăn hoặc bất kỳ thứ gì dành cho các thầy dùng. Khi ngài giữ cổng, ngài chăm sóc những người nghèo đến xin nhà dòng, ngài có tiếng là đại lượng. Đôi khi các tu sĩ khác phải hạn chế tính hào phóng của ngài!
Ngài dành thời gian để cầu nguyện trước Thánh Thể. Lúc đó nhiều người nhận thấy ngài là người khôn ngoan. Sau khi ngài qua đời và an táng, người ta đến mộ ngài để cầu nguyện rất đông, nhiều phép lạ được coi là của ngài ngay sau đó. Năm 1690, ngài được phong thánh. Năm 1897, ngài được tôn phong làm bổn mạng các Đại hội Thánh Thể.

18/5 – Thánh Gioan I, Giáo hoàng Tử đạo (qua đời năm 526)

Hoàng đế ủng hộ tà thuyết Arian (không tin thiên tính của Chúa Giêsu) đã cai trị Ý 30 năm, dù hoàng đế này vẫn đối xử với người Công giáo bằng sự khoan hồng. Chính sách của hoàng đế đã thay đổi vào khoảng thời gian Hồng y trẻ được chọn làm giáo hoàng với danh hiệu Gioan I.
Khi hoàng đế Đông phương bắt đầu dùng các biện pháp mạnh đối với những người theo tà thuyết Arian, ông buộc Gioan dẫn đầu phái đoàn tới Đông phương để làm giảm nhẹ các biện pháp chống lại những người theo dị giáo.
Khi ĐGH Gioan I trở lại Rôma, ngài thấy hoàng đế bắt đầu nghi ngờ tình bạn của ngài với đối thủ Đông phương.
Trên đường về, ĐGH Gioan I bị bỏ tù khi đến Ravenna vì hoàng đế nghi ngờ ngài thông đồng lật đổ ngai vàng của ông. Sau khi bị tù, ĐGH Gioan I qua đời vì bị hành hạ dã man.

19/5 – Thánh Theophilus Corte, Linh mục (1676-1740)
Nếu chúng ta trông mong các thánh làm những điều lạ và để lại cho chúng ta nhiều câu nói đáng giá, chúng ta sẽ thất vọng về thánh Theophilus. Mầu nhiệm của hồng ân Chúa trong mỗi cuộc đời lại có một vẻ đẹp riêng biệt.
Theophilus sinh tại Corsica, trong một gia đình giàu có và quý tộc. Khi còn trẻ, ngài vào Dòng Phanxicô và yêu thích sống cô tịch để cầu nguyện. Sau khi hoàn tất việc học, ngài thụ phong linh mục và được bổ nhiệm đến một nhà tĩnh tâm (retreat house) gần Subiaco. Được cảm hóa nhờ đời sống nghiêm khắc của Dòng Phanxicô ở đó, ngài thành lập nhiều nhà tĩnh tâm khác ở Corsica và Tuscany. Qua nhiều năm, ngài nổi tiếng về tài giảng thuyết và nỗ lực truyền giáo.
Dù hay ốm đau, ngài vẫn phục vụ Chúa trong việc giải tội, giúp bệnh nhân. Ngài qua đời ngày 17/6/1740, và được phong thánh năm 1930.

20/5 – Thánh Bernarđinô Siêna, Linh mục (1380-1444)

Đa số các thánh chịu nhiều chống đối, thậm chí còn bị hành hạ. Ngược lại, thánh Bernarđinô có vẻ giống một “máy phát điện người” (human dynamo) đảm nhận các nhu cầu của thế giới.
Ngài là nhà giảng thuyết đặc biệt nhất thời đó, ngài đi khắp nước Ý, trấn an các thành phố bị tan tành vì xung đột, thu hút tà giáo, thu hút đám đông 30.000 người, ngài theo lời khuyên của thánh Phanxicô đi rao giảng về “nhân đức và thói xấu, hình phạt và vinh quang”.
So sánh với thánh Phaolô, thánh Bernarđinô có trực giác nhạy bén về các nhu cầu của thời đại, cùng với sự thánh thiện và năng lực. Ngài hoàn thành tất cả dù giọng nói ngài khàn và yếu, và ngài rất sùng kính Đức Mẹ.
Lúc ngài 20 tuổi, bệnh dịch hoành hành Siêna. Có ngày có 20 người chết trong bệnh viện. Thánh Bernarđinô tình nguyện điều hành bệnh viện, với sự hỗ trợ của các thanh niên khác chăm sóc các bệnh nhân trong 4 tháng. Ngài không bị nhiễm bệnh dịch nhưng quá kiệt sức nên bị sốt trong vài tháng. Ngài dành cả năm chăm sóc người dì (coi như mẹ, vì cha mẹ ngài mất khi ngài còn nhỏ). Khi người dì mất, ngài cầu xin được biết Ý Chúa muốn đối với ngài.
Lúc 22 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục 2 năm sau. Gần 12 năm sống trong cô tịch và cầu nguyện, nhưng ngài cảm thấy có ơn gọi đi rao giảng. Ngài luôn đi bộ, đôi khi giảng hằng giờ ở một nơi, rồi lại tiếp tục đến nơi khác.
Ngài nổi tiếng về lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu, di sản của ngài là biểu tượng IHS, viết tắt 3 từ theo tên Chúa Giêsu bằng tiếng Hy Lạp, bằng chữ Gothic trên một mặt nhật sáng chói (a blazing sun). Từ này thay thế các biểu tượng dị đoan (superstitious symbols) của thời đó, kể cả huy hiệu (insignia) của các bè phái (chẳng hạn Guelphs và Ghibellines). Lòng sùng kính này lan truyền, và biểu tượng này bắt đầu xuất hiện trong các nhà thờ, các gia đình và các tòa nhà chung. Sự chống đối nổi lên từ những người cho đó là sự đổi mới nguy hiểm (dangerous innovation). Người ta kiện cáo ngài 3 lần, nhưng ngài đã chứng minh bằng sự thánh thiện, sự chính thống và sự thông minh.
Ngài nhấn mạnh sự học sâu hiểu rộng và học hỏi thêm về thần học và giáo luật. Khi ngài khởi xướng, lúc đó có 300 tu sĩ trong cộng đoàn. Ngài vẫn đi rao giảng trong 2 năm cuối đời, và ngài qua đời trên đường đi rao giảng.

21/5 – Thánh Cristobal Magallanes Linh mục và các bạn tử đạo (qua đời 1915-1928)

Cũng như chân phước Miguel Agustín Pro, Dòng Tên, thánh Cristóbal và 24 anh em tử đạo sống trong chế độ chống Công giáo tại Mexico, họ muốn làm suy yếu niềm tin Công giáo của dân chúng. Các nhà thờ, các chủng viện và các trường học đều bị đóng cửa; các giáo sĩ ngoại quốc đều bị trục xuất. Thánh Cristóbal mở một chủng viện bí mật (clandestine seminary) tại Totatiche, Jalisco. Ngài và các linh mục khác phải hoạt động Công giáo bí mật trong thời nhà cầm quyền Plutarco Calles (1924-28).
Tất cả các vị tử đạo này có 3 vị là linh mục triều. David, Manuel và Salvador là giáo dân chết cùng linh mục xứ là Luis Batis. Các vị tử đạo này thuộc phong trào Cristero, cam kết trung thành với Chúa Kitô và Giáo hội để rao truyền Tin Mừng – dù các nhà lãnh đạo Mexico coi là trọng tội đối với người lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy hoặc cử hành thánh lễ.
Các vị tử đạo này không chết chung một nhóm mà ở 8 nơi khác nhau tại Mexico, ở Jalisco và Zacatecas là nhiều nhất. Các vị tử đạo này được phong chân phước năm 1992 và được phong thánh năm 2000.

22/5 – Thánh Rita Cascia (1381-1457)

Cũng như Elizabeth Ann Seton, Rita Cascia là người vợ, người mẹ, góa phụ và là thành viên của một cộng đoàn tu. Sự thánh thiện của bà phản ánh trong cách sống.
Rita Cascia sinh tại Roccaporena, thuộc Trung Ý. Rita muốn đi tu nhưng bị ép gả cho một người đàn ông cộc cằn và thô lỗ. Suốt 18 năm sống trong hôn nhân, bà sinh hạ và nuôi dạy 2 con trai. Sau khi chồng bị giết trong một cuộc ẩu đả, cả 2 con trai của bà cũng chết, bà xin vào dòng thánh Augustinô ở Cascia. Mới đầu không được chấp nhận vì bà là góa phụ, nhưng rồi bà cũng được nhận.
Sau nhiều năm, sự khổ hạnh, cách sống cầu nguyện và đức bác ái của bà trở thành huyền thoại. Khi bà có các vết thương trên trán, người ta liên kết các vết thương đó với những gai nhọn trên đầu Đức Kitô. Bà thường xuyên suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bà chăm sóc các nữ tu bệnh hoạn bằng tấm lòng yêu thương. Bà cũng khuyên các giáo dân đến với tu viện của bà.
Bà được phong chân phước năm 1626, và mãi đến năm 1900 bà mới được phong thánh. Bà được biết đến nhiều, cùng với thánh Jude, như một vị thánh của các trường hợp bất khả dĩ (impossible cases). Hằng năm có nhiều người đến kính viếng mộ bà.

23/5 – Thánh Felix Cantalice (1515-1587)

Felix là tu sĩ đầu tiên của Dòng Phanxicô được phong thánh. Thật vậy, khi ngài sinh ra, các tu sĩ Dòng Phanxicô chưa quy tụ thành nhóm.
Ngài sinh ra trong một gia đình đạo hạnh, có lòng tôn kính Thiên Chúa, ở Rieti Valley. Ngài làm nông nghiệp và chăn chiên đến lúc 28 tuổi. Ngài có thói quen cầu nguyện khi lao động.
Năm 1543, ngài vào Dòng Phanxicô. Được giải thích về cuộc sống khổ hạnh của dòng, Felix trả lời: “Thưa cha, cách sống khổ hạnh của dòng không làm con sợ. Nhờ ơn Chúa giúp, con có thể vượt qua mọi khó khăn và giúp con đứng dậy từ sự yếu đuối của con”.
Ba năm sau, Felix được sai tới một tu viện tại Rôma để hành khất chính thức. Vì ngài sống đơn giản và bác ái, ngài khai sáng cho nhiều người trong 42 năm ngài phục vụ anh em.
Ngài hoán cải nhiều tội nhân và đối xử với người nghèo như huynh đệ. Khi Felix không nói về việc hành khất của mình, thì ngài lần Chuỗi Mân Côi. Người ta gọi ngài bằng biệt danh “Tu sĩ Tạ Ơn Chúa” (Brother Deo Gratias) vì ngài luôn miệng nói “Tạ Ơn Chúa”.
Khi ngài lớn tuổi, bề trên buộc ngài phải đi dép để bảo vệ sức khỏe. Ngài được phong thánh năm 1712.

24/5 – Thánh Maria Mađalêna Pazzi (1566-1607)

Xuất thần (mystical ecstasy) là nâng tâm hồn lên với Chúa. Đó là lúc con người nhận biết mình kết hợp với Thiên Chúa, tách mình ra khỏi thế giới. Maria Mađalêna Pazzi được Thiên Chúa ban cho ơn lạ này, bà gọi đó là “thánh xuất thần” (ecstatic saint).
Bà sinh trong một gia đình quý tộc ở Florence, năm 1566. Bình thường thì bà sẽ kết hôn với người giàu có và sống thoải mái, nhưng bà chọn đi đường riêng mình. Lúc 9 tuổi, Maria Mađalêna Pazzi học suy niệm với cha giải tội. Bà rước lễ lần đầu lúc 10 tuổi (thời đó là sớm), và 1 tháng sau, bà khấn giữ mình đồng trinh. Lúc 16 tuổi, bà vào Dòng Kín ở Florence vì bà muốn rước lễ hằng ngày ở đó.
Bà có tên là Catarina, khi vào dòng bà lấy tên là Maria Mađalêna. Bà vào nhà tập 1 năm thì bị bệnh nặng. Cái chết hầu như gần kề nên bề trên cho bà khấn với một nghi lễ riêng. Ngay sau đó, bà xuất thần kéo dài khoảng 2 giờ. Bà cũng xuất thần sau khi rước lễ suốt 40 ngày sau. Các lần xuất thần này là kinh nghiệm phong phú về việc kết hợp với Chúa và thấu hiểu kỳ lạ về các chân lý về Thiên Chúa.
Linh mục giải tội yêu cầu bà đọc cho thư ký viết lại các kinh nghiệm xuất thần. 6 năm sau, 5 cuốn sách lớn được viết đầy. Ba cuốn đầu tiên ghi lại các lần xuất thần từ tháng 5-1584 tới lễ Hiện Xuống năm sau. Cuốn thứ tư ghi lại những thử thách kéo dài 5 năm, và cuốn thứ năm là bộ sưu tập các lá thư liên quan việc cải cách và canh tân. Một cuốn khác là Admonitions (Các lời khuyên) là bộ sưu tập những câu nói từ kinh nghiệm đào tạo các nữ tu.
Sự khác thường là bình thường đối với thánh nữ này. Bà đọc được tư tưởng của người khác và tiên báo các sự kiện tương lai. Lúc sinh thời, bà hiện ra với vài người ở những nơi xa nhau và chữa lành các bệnh nhân. Thiên Chúa cho phép bà kết hiệp mật thiết đặc biệt để chuẩn bị cho bà 5 năm hiu quạnh và cảm thấy khô khan về tâm linh. Bà đắm chìm trong bóng tối mà bà không thấy gì ngoài sự sợ hãi bao trùm bà. Bà bị cám dỗ dữ dội và đau đớn về thể lý. Bà qua đời năm 1607 lúc 41 tuổi, và được phong thánh năm 1669.

25/5 – Bậc đáng kính Bêđa, Linh mục (672?-735)

Bêđa là một trong số ít người được kính trọng ngay lúc sinh thời. Các bài viết của ngài đầy đức tin, và một Công đồng đã cho đọc tại các nhà thờ.
Hồi trẻ, Bêđa được bầu làm bề trên Tu viện Thánh Phaolô ở Jarrow. Có tài và giáo huấn giỏi, ngài làm thơ về mọi khoa học: triết học tự nhiên, quy tắc triết học của Aristotle, thiên văn học, số học, văn phạm, lịch sử giáo hội, cuộc đời các thánh, và đặc biệt là Kinh thánh. Ngài được phong chức phó tế lúc 19 tuổi và thụ phong linh mục lúc 30 tuổi. Ngài luôn bận học hỏi, viết lách và dạy dỗ. Ngài biên soạn 45 cuốn sách, kể cả 30 bài bình luận về Kinh thánh.
Dù được vua chúa và các nhà quý tộc tìm kiếm, cả ĐGH Sergiô, Bêđa vẫn sống trong tu viện cho đến chết. Ngài chỉ đi xa vài tháng để dạy ở trường của tổng giám mục giáo phận York. Ngài qua đời khi đang đọc Kinh Sáng Danh.
Cuốn Ecclesiastical History of the English People (Lịch sử Giáo hội của Người Anh) của ngài được coi là tác phẩm rất quan trọng về nghệ thuật viết. Thời hoàng kim chấm dứt khi Bêđa qua đời: Hoàn tất mục đích chuẩn bị cho Kitô giáo Tây phương đồng hóa người Bắc phương man rợ không là người La Mã. Ngài nhận thấy lối mở cho cuộc sống mới của Giáo hội ngay cả khi điều đó xảy ra.

26/5 – Thánh Philip Nêri, Linh mục (1515-1595)

Philip Nêri là dấu hiệu của sự mâu thuẫn, kết hợp sự nổi tiếng với lòng sùng đạo chống lại tình trạng thối nát của Rôma và các giáo sĩ vô tâm, đó là tình trạng tệ hại của thời kỳ hậu phục hưng (post-Renaissance).
Thời trẻ, ngài bỏ cơ hội trở thành thương gia, chuyển từ Florence tới Rôma và dâng mình cho Chúa. Sau 3 năm học thần học và triết học, Ngài từ chối thụ phong linh mục. 13 năm tiếp theo ngài theo một ơn gọi “khác thường” là chuyên chăm cầu nguyện và làm việc tông đồ.
Khi Công đồng Trentô cải cách Giáo hội về giáo lý, tính cách của ngài đã khiến mọi người chú ý, từ người hành khất tới các hồng y. Một nhóm người đến theo ngài vì sự can đảm của ngài. Họ gặp ngài để cùng cầu nguyện và thảo luận, đồng thời cùng phục vụ người nghèo ở Rôma.
Theo sự khuyến khích của linh mục giải tội, ngài bằng lòng thụ phong linh mục và trở thành linh mục giải tội xuất chúng, có biệt tài nhận biết người ta giả vờ và ảo tưởng, nhưng ngài luôn tỏ thái độ bác ái và hay nói đùa. Ngài sắp xếp những buổi nói chuyện, thảo luận và cầu nguyện cho các hối nhân tại căn phòng phía trên nhà thờ. Đôi khi ngài lôi kéo người ta đến nhà thờ bằng âm nhạc và dã ngoại.
Một số người theo ngài cũng trở thành linh mục và sống chung. Đó là khởi đầu cho Dòng Oratory (Hùng biện) mà ngài sáng lập. Các buổi chiều hằng ngày, cộng đoàn này có 4 buổi nói chuyện thân mật, có hát những thánh ca bằng tiếng bản xứ và cầu nguyện. Giovanni Palestrina, một trong số người theo thánh  Philip, chuyên soạn nhạc cho các buổi gặp gỡ này.
Dòng Oratory được phê chuẩn sau một thời gian bị kết án là tà giáo, vì những người này giảng đạo và hát thánh ca! ĐHY Newman đã mở cơ sở của Dòng Oratory đầu tiên sử dụng tiếng Anh.
Lời khuyên của thánh Philip được nhiều người tài ba lỗi lạc thời đó nhận biết. Ngài là một trong số các nhân vật uy tín của phong trào Chống Cải Cách (Counter-Reformation), chủ yếu là thay đổi sự thánh thiện cá nhân của nhiều người có uy tín trong Giáo hội. Nhân đức của ngài là khiêm nhường và vui vẻ.

27/5 – Thánh Augustinô Canterbury, Giám mục (qua đời năm 605?)

Năm 596, khoảng 40 tu sĩ đến Rôma để giảng đạo cho người Anglo-Saxon. Trưởng đoàn là Augustinô, Bề trên tu viện tại Rôma. Nghe nói người ta bách hại nên nhóm của ngài không tới Gaul (Pháp). Ngài trở lại Rôma và gặp ĐGH Grêgôriô Cả, vị giáo hoàng đã phái ngài đi, và được biết chuyện bách hại là vô căn cứ.
Thế là ngài lên đường. Lần này, ngài tới lãnh thổ Kent do vua Ethelbert cai trị. Nhà vua là người ngoại giáo kết hôn với một phụ nữ Kitô giáo. Nhóm ngài được tiếp đón đàng hoàng, cho cư trú tại Canterbury. Khoảng 1 năm sau, vào Chúa nhật lễ Hiện xuống năm 597, nhà vua nhập đạo. Sau khi được tấn phong giám mục tại Pháp, ngài trở lại Canterbury và lập tòa giám mục. Năm 1070, ngài cho xây một nhà thờ và một tu viện gần nhà thờ chính tòa ngày nay – và hiện nay vẫn còn. Đạo Chúa lan rộng, các tòa giám mục được thành lập tại London và Rochester.
Đôi khi tiến độ công việc chậm, Augustinô không thường xuyên thành công. Các nỗ lực giải hòa các Kitô hữu người Anglo-Saxon Christians với các Kitô hữu gốc Anh (những người bị quân xâm lăng Anglo-Saxon đẩy tới miền Tây Anh quốc) đều không thành công. Ngài còn thất bại trong việc thuyết phục dân Anh bỏ tục lệ Celtic nào đó at, kể cả việc giúp họ truyền bá púc âm cho người Anglo-Saxon.
Cần mẫn làm việc, ngài khôn ngoan chú ý các quy luật truyền giáo do ĐGH Grêgôriô Cả đề xuất: Thanh lọc hơn là hủy diệt các đền thờ và tục lệ của dân ngoại; hãy thay thế các lễ hội của dân ngoại bằng các lễ của Kitô giáo; giữ lại các lễ hội địa phương nếu có thể. Ngài qua đời tại Anh năm 605, sau 8 năm ngài giảng đạo tại đây và thu được nhiều kết quả. Ngài được mệnh danh là “Tông đồ của Anh quốc” (Apostle of England).

28/5 – Thánh Maria Anna Chúa Giêsu (1614-1645)

Maria Anna sống kết hợp mật thiết với Chúa và gần gũi với mọi người, dù cuộc đời của bà ngắn ngủi.
Maria Anna sinh tại Quito, New Granada (nay là Ecuador), trong một gia đình quý tộc, là con út trong 8 người con. Cha là Don Girolamo Flores Zenel de Paredes, mẹ là Doña Mariana Cranobles de Xaramilo. Hai ông bà là người Tây Ban Nha, nhưng đều mất khi Maria Anna còn nhỏ và được vợ chồng người chị cả nuôi. Lúc 10 tuổi, bà khấn giữ 3 nhân đức Thanh tuân, Thanh bần và Thanh khiết.
Bà muốn đi tu Dòng Đa Minh, nhưng rồi bà vào Dòng Ba Phanxicô, sống đời cầu nguyện và đền tội tại gia, chỉ ra khỏi nhà khi đi nhà thờ và đi làm việc bác ái. Bà có những lúc xuất thần khi cầu nguyện. Tại Quito, bà mở một điều dưỡng viện và một trường học cho người Phi châu và người Mỹ bản xứ. Khi bùng phát bệnh dịch, bà chăm sóc các bệnh nhân và mai táng người chết.
Năm 1645, động đất và bệnh dịch xảy ra tại Quito, bà cũng nhiễm bệnh và mất sau đó. Sau khi bà qua đời, một cây huệ tây mọc lên từ vũng máu của bà và nở hoa, điều kỳ lạ này khiến bà có biệt danh là Huệ tây Quito (The Lily of Quito). Cộng hòa Ecuador tôn vinh bà là Liệt nữ Quốc gia.
ĐGH Bênêđictô XIV mở án phong thánh cho bà ngày 17-12-1757. ĐGH Piô VI tôn phong bà là Bậc đáng kính. ĐGH Piô IX tôn phong chân phước cho bà ngày 11-1-1817. ĐGH Piô XII phong thánh cho bà năm 1950. Nhiều phép lạ được coi là có sự can thiệp của bà, nhất là ở Mỹ.

29/5 – Thánh Madeleine Sophie Barat, Trinh nữ (1779-1865)

Di sản của thánh Madeleine Sophie Barat có thể tìm thấy ở hơn 100 trường học được thành lập bởi Dòng Thánh Tâm (Society of the Sacred Heart) của bà.
Bà được anh của bà là Louis, hơn bà 11 tuổi, giáo dục nhiều, có cả sự giáo dục của người cha đỡ đầu. Người anh là linh mục, nên anh cũng muốn em gái học tiếng Latin, Hy Lạp, lịch sử, vật lý và toán học. Lúc 15 tuổi, bà được tiếp xúc với Kinh thánh, các giáo huấn của các giáo phụ và thần học. Bà rất thích học hỏi.
Đó là thời Cách mạng Pháp và các trường học Kitô giáo bị cấm cản. Việc giáo dục, nhất là các em gái, gặp nhiều khó khăn. Lúc đó, bà quyết định đi tu. Rồi bà lập Dòng Thánh Tâm, chuyên giáo dục trẻ em nghèo và phụ nữ nghèo. Ngày nay, các trường của Dòng Thánh Tâm dạy cả học sinh nam và nữ, cũng có những trường dành cho nam sinh.
Năm 1826, Dòng Thánh Tâm của bà được Tòa thánh phê chuẩn. Lúc này bà trở thành Bề trên tổng quyền. Năm 1865, bà bị tê liệt và qua đời vào lễ Thăng Thiên. Bà được phong thánh năm 1925.

30/5 – Thánh Grêgôriô VII, Giáo hoàng (1020-1085)

Thế kỷ X và nửa đầu thế kỷ XI là những tháng năm tăm tối đối với giáo hội, một phần vì chức vụ giáo hoàng là thứ cầm cố của nhiều gia đình Rôma. Năm 1049, mọi sự bắt đầu thay đổi khi ĐGH Leo IX, được bầu chọn. Ngài là một nhà cải cách. Ngài đưa tu sĩ trẻ Hildebrand tới Rôma làm cố vấn và đại diện trong các sứ vụ quan trọng. Sau đó tu sĩ này là ĐGH Grêgôriô VII.
Lúc đó có 3 “đại dịch” trong giáo hoàng: Buôn thần bán thánh (simony), hôn nhân phi pháp của các giáo sĩ và truyền chức cho giáo dân (vua chúa và các nhà quý tộc kiểm soát việc bổ nhiệm các viên chức trong giáo hội). Đối với các việc này, tu sĩ Hildebrand hướng dẫn sự chú ý của nhà cải cách, đầu tiên là cố vấn cho các giáo hoàng và sau đó (1073-1085) chính tu sĩ Hildebrand là giáo hoàng.
Các tông thư của ĐGH Grêgôriô nhấn mạnh vai trò của giám mục Rôma là linh mục của Chúa Kitô và trung tâm hữu hình của sự đoàn kết trong giáo hội. Ngài đấu tranh nhiều với hoàng đế Rôma Henry IV về việc ai kiểm soát việc bầu chọn các giám mục và các tu viện trưởng.
ĐGH Grêgôriô chống lại mọi sự tấn công vào tự do của giáo hội. Về điều này, ngài chịu đau khổ và chết khi bị đi đày. Ngài nói: “Tôi yêu công lý và ghét bất công; do đó tôi chết vì bị đày”. 30 năm sau, giáo hội chiến thắng trong việc chống lại việc phong chức cho giáo dân.

31/5 – Đức Mẹ thăm viếng

Trở lại thế kỷ XIII và XIV. Lễ này được mừng kính rộng rãi trong giáo hội để cầu nguyện cho hiệp nhất. Lễ này được ấn định từ năm 1969 sau lễ Truyền Tin (ngày 25/3) và trước lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả (ngày 24/6).
Chũng như đa số lễ về Đức Mẹ, lễ này liên quan gần với Chúa Giêsu và công cuộc cứu độ của Ngài. Các “diễn viên” trong “vở kịch” thăm viếng (x. Lc 1:39-45) là Đức Maria và thánh Êlizabet. Tuy nhiên, Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy giả lấy kịch bản này theo cách bí ẩn. Chúa Giêsu làm cho thánh Gioan nhảy lên vì vui mừng – niềm vui của Ơn Cứu Độ. Êlizabet, đầy tràn niềm vui của Chúa Thánh Thần và nói những lời ngợi khen Đức Maria – những lời còn vang vọng qua mọi thời đại.
Thánh Êlizabet khen Mẹ Maria là “Mẹ Thiên Chúa” có thể được coi là lòng sùng kính đầu tiên của giáo hội đối với Đức Mẹ. Bài ca ngợi khen (Magnificat – Lc 1:46-55) là lời Đức Mẹ tán tụng Thiên Chúa.

Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)